Sunday, 31 July 2011

Cơn mưa cuối hạ

Nguồn ảnh : Internet

                      Hai đứa đi trên đường phố mưa rơi
                      Nghe tí tách tiếng mưa cười rất trẻ
                      Tay nắm tay sao mà thân thiết thế
                      Bao ước mơ đẹp đẽ cũng còn thua.

                      Anh hát tặng em bài tình ca năm xưa
                      Vừa chợt về cùng cơn mưa cuối hạ
                      “Nếu phải xa em ơi đừng vội vã
                      Quên một thời ta dành cả cho nhau.”

                      Hạt mưa rơi rất mau, rất mau
                      Cho hai đứa đứng gần nhau thêm nữa
                      Bao điều trước còn ngập ngừng, lần lữa
                      Giờ tuôn dài như chạy đua cùng mưa.

                      Anh có hẹn đâu, em cũng chẳng chờ!
                      Chỉ tại…trời mưa giờ nên duyên nợ
                      Nếu tình yêu bắt đầu từ mưa gió
                      Chắc sẽ đẹp nhiều khi nắng đỏ phải không anh?
Hà Nội 1982
Thu Hà

Friday, 29 July 2011

THỊ MÀU

Anh Ngọc

***

Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đình
Làm điên đảo những phông màn khép mở
Người táo bạo
Người không hề biết sợ
Người chưa từng lùi bước trước tình yêu

Người phá tung khuôn khổ những điệu chèo
Để cuộc sống ùa lên đầu cửa miệng
Người trung thực đến không cần giấu giếm
Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa

Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùa
Chọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹo
Thừa sinh lực nên người luôn túng thiếu
Nên hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

Người đi qua nghiêng ngả những trận cười
Chấp tất cả lời ong ve mai mỉa
Người chịu hết mọi thói đời độc địa
Chiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung

Trên môi người câu hát cứ trẻ trung
Từng sợi tóc cũng rung theo nhịp phách
Mùi táo chín, mùi hương, mùi da thịt
Người đi qua sân khấu tới đời thường

Người sống trong hơi thở của nhân dân
Mấy trăm năm ai để thương để giận
Câu sa lệch cũng hò reo nổi loạn
Nhịp trống gầm lên những khát vọng không lời

Những khát vọng nằm sâu trong mỗi trái tim người
Được sống đúng với lòng mình thực chất
Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức
Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Màu

Những cánh màn đã khép lại đằng sau
Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt
Bao Thị Màu đã trở về đời thực
Vị táo còn chua mãi ở đầu môi.

Monday, 25 July 2011

Ngày 27/07

Phù sa mặn
Xin thắp nén nhang tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ
trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi đã hy sinh
nơi cuối nguồn của những dòng sông
Học sinh khóa 3
Kể đi sông ơi!
Tôi muốn nghe tất cả
Hỡi con sông chở nặng phù sa,
Xứ Quảng Trị - dẫu quen mà rất lạ
Bao lớp người qua, bao lớp đất bồi.


Tôi đến bên sông với tâm trạng bồi hồi
- Đâu rồi nhỉ? Đâu rồi lịch sử?
Sông vẫn chảy mặc nhiên dáng trầm ngâm tư lự!
Hãy kể tôi nghe… dù chỉ đôi lời…!


Tôi vẫn biết: Trong suốt cuộc đời
Sông cũng như người: Buồn vui đủ cả.
Có khác chăng:
- Sông đục phù sa mùa hạ.
- Sông trong xanh nổi đá mùa đông.


Nhưng sông ơi! Sông có còn nhớ không?
Những đồng đội tôi đến bên sông ngày ấy
Những con người đầu trần, lưng cháy
Những “thiên thần” đi xuyên bóng đêm!


Có phải vô tình? Hay lâu quá sông quên?
Như con nước vẫn đổ xuôi về biển…
May có lớp phù sa - phù sa còn lưu luyến
Giữ lại trong mình bao kỉ niệm xa xăm!


Thời gian trôi qua khỏa lấp tháng năm
Nhưng phù sa đến hôm nay còn mặn
Mang trên mình vết thương chưa lành hẳn
Lẫn xương, máu bao người
nên phù sa có vị mặn… Sông ơi!
Đồng đội tôi bao người đi xa rồi
Nhưng sông không bồi - mà sông chỉ lở
Những con người trẻ trung từng làm nên bão tố!
Họ ở đâu bây giờ?
chỉ có phù sa mới nói hộ sông thôi.


Tôi muốn xới lên bao lớp đất bồi
Để tìm dấu chân những đồng đội cũ
Tìm những hương hồn bao năm yên ngủ
Họ vẫn chưa về sau cuộc chiến tranh?

Tôi đang đi trong vô tận mầu xanh
Nghe phù sa vẫn thì thầm kể mãi:
- Đây nơi quân vào, đây nơi vượt bãi…
Tôi như trôi trong huyền thoại…
chơi vơi!


Sông vẫn vô tình đổ nước về khơi
Đâu có biết tôi đang đi ngược dòng chảy.
Bởi có phù sa!
lớp phù sa rực một màu đỏ ấy!
Vẫn mặn mà với bao chuyện đã qua.

Ai đó trên sông đang cất tiếng ca
Hát về chiến công của một thời xa ấy.
Câu hát tỏa lan - xôn xao - sóng dậy.
Như lớp phù sa – chập chờn mãi
…trong tôi!
 
Quảng Trị, 8-2002
T.X.L

Bên bờ sông Gianh (Quảng Bình), AH liệt sĩ Huỳnh Kim Trung đã hy sinh năm 1972. Bên bờ sông Thạch Hãn, chảy qua Thành cổ Quảng Trị, là nơi yên nghỉ của các liệt sĩ: Bùi Hữu Thích, Nguyễn Lâm, Vũ Kiên Cường, Trịnh Thúc Doanh, Đặng Bá Linh, Y Hòa.
Nguồn : SRTKL **
_________________
* Xuân Lăng mất năm 2008, ngày 17/05, vì bệnh ung thư.

Friday, 22 July 2011

Mưa

 Ảnh: Internet
                              Sao mọi người lại buồn
                              Khi nhìn hạt mưa rơi?
                              Còn em, em thấy vui
                              Mỗi khi Trời nổi giận.

                              Trời yêu Đất bất tận
                              Nhưng nào có nói đâu!
                              Chỉ khi nặng buồn sầu
                              Mới cúi đầu rơi lệ...

                              Sao mà Trời khôn thế
                              Góp nhặt những áng mây,
                              Vẩn vơ suốt tháng ngày
                              Giăng đầy như nỗi nhớ.

                              Nếu mà Trời nói nhỏ
                              “Yêu Đất lắm, Đất ơi!”
                              Đất hẳn sẽ mỉm cười
                              “Giỡn hoài thôi, ghét lắm!”

                              Bởi vì khi Trời nắng
                              Đất chẳng nhìn Trời đâu
                              Trời vừa rộng, vừa cao
                              Đất làm sao…với được!

                              Trời hiểu Đất cần nước
                              Nhưng mà ai thèm xin
                              Chỉ lặng im đứng nhìn
                              Rồi vội vàng…chạy trốn…

                              Đất thấy lòng bộn rộn
                              Xòe tay đón mưa rơi
                              Cố giấu một nụ cười
                              Trời…thông minh lắm lắm!
Bích Liên

Wednesday, 20 July 2011

Ai là tác giả bài thơ "Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng"?

Lại sưu tầm được một bài viết liên quan đến "Em......"




 Ông Khổng Văn Đương

                      “Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng
                      Tìm không thấy, chỉ thấy trời im lặng
                      Một mình em trong đêm dài thanh vắng
                      Tim bồi hồi chân bước vội dưới trăng...”

Những câu thơ này xuất hiện trong vài cuốn sách với tác giả Ônga Bécgôn - một nữ thi sĩ của Nga nổi danh. Gần đây một người Việt Nam đã nhận là tác giả của những vần thơ này.
Chuyện bắt đầu từ năm 1990, NXB Văn hóa ấn hành cuốn sách Almanach Người mẹ và phái đẹp, trong đó mục “Những bài thơ tình hay” (Thế giới và Việt Nam) có đăng bài thơ Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng (trang 204) và ghi tên tác giả là nhà thơ Nga Ônga Bécgôn (1910 - 1975).

Sách in xong, có một người đàn ông ở Tp.HCM tình cờ đọc được bài thơ trên, đã lặng đi, cảm xúc buồn vui ùa về, khiến ông sửng sốt bàng hoàng: “Đứa con tinh thần” của ông sau bao năm lưu lạc tưởng đã mất, nay được xuất hiện trang trọng. Chỉ có điều người ta đã nhầm “người mẹ” là: Ônga Bécgôn! Và nội dung có khác một số câu chữ. Bảy năm sau, ngày 15/5/1997, ông mới rụt rè viết bức thư gửi NXB Văn hóa, nội dung bức thư như sau:

“Tôi tên là Khổng Văn Đương, sinh năm 1945, tại xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Nghề nghiệp: kỹ sư hóa, công tác tại Công ty Dịch vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia (SULECO) thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Tp.HCM... Thực tình tôi đã mua được cuốn sách này từ lâu, nhưng mãi gần đây tôi mới đọc kỹ và phát hiện ra điều này.
Vào năm 1965, sau khi tốt nghiệp cấp ba phổ thông tôi được Bộ Giáo dục chọn sang Rumani học chương trình đại học tại Trường đại học Bách khoa Georges Dej Bucarest. Trong thời gian học tại đây, vào năm 1967, tôi có quen và yêu một cô gái người Rumani tên là Valentina, 17 tuổi, học sinh lớp 12 trường THPT Cristina (Brasov).
Vào thời điểm đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào những năm ác liệt nên việc yêu đương của bất kỳ sinh viên Việt Nam nào với người bản xứ đều không được Ban chấp hành Đoàn và tổ chức sinh viên tại Rumani chấp nhận. Ý thức về điều đó và thấy rõ được nguy cơ nếu cứ tiếp tục yêu đương, thì sẽ bị trục xuất về nước, trong một lần đi chơi với Valentina, tôi đã đề nghị và quyết định hai người phải cắt đứt mối quan hệ.
Tôi hoàn toàn không ngờ việc đó đã gây một hậu quả rất buồn, sau đó khoảng nửa tháng, tôi nhận được một lá thư của Valentina, với những lời lẽ hết sức bi thiết và oán hận. Xúc động trước tình cảm chân thành, tha thiết này, tôi đã viết bài thơ Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng được đề cập ở trên.
Câu chuyện tình của chúng tôi về sau kết cục rất bi đát: Quan hệ của chúng tôi bị tổ chức phát hiện, tôi bị khai trừ ra khỏi Đoàn, Valentina phát điên, và mọi sự đều đổ vỡ tan tành. Tập thơ tôi viết tặng Valentina (khoảng 50 bài trong đó có bài Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng) bị đánh giá là có màu sắc xấu, bị tịch thu và gửi đi đâu tôi cũng không được biết.

Như vậy, bài thơ được in từ năm 1990 nhưng mãi 7 năm sau, tác giả mới gửi bức thư tới NXB xin đề nghị được đính chính, nhưng đã không gửi đi.

Sau này tâm sự với chúng tôi, Khổng Văn Đương buồn bã nói rằng: “Tôi vừa ngưỡng mộ, vừa sợ sệt văn chương. Tôi vẫn còn biết lặng đi trước một câu thơ hay, nhưng nghĩ tới tập thơ viết tay làm từ lúc 17 tuổi lên tàu ra nước ngoài mà thấy ớn lạnh...”

Lời lẽ tha thiết trong bức thư của Khổng Văn Đương đã thôi thúc chúng tôi tìm tới NXB Văn hóa (nay là NXB Văn hóa - Thông tin). Biên tập viên kỳ cựu mảng sách văn nghệ gần 30 năm có lẻ, ông Nguyễn Hoàng Điệp (Ban Sách nghệ thuật) cho biết, ông vừa là đồng tác giả, vừa là thư ký, vừa là biên tập viên của cuốn Almanach. Cuốn này xuất bản đầu tiên vào năm 1986. Đến năm 1990 thì cuốn sách đã nhiều lần tái bản, số lượng phát hành lên tới 4 - 5 vạn bản.

Ông Điệp cho hay: “ Trước đó bài thơ trên đã được in chính thức tại một giáo trình của một trường đại học, một chuyên khảo thơ hay một tạp chí nào đó, nên NXB Văn hóa mới chọn… Theo quan điểm của tôi, bài Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng có thể là của Ônga Bécgôn vì căn cứ vào cấu trúc, giọng điệu, ngôn ngữ của bài thơ đậm chất phương Tây và rất giống chất thơ của nữ thi sĩ người Nga này...”

Lật giở cuốn Almanach Người mẹ và phái đẹp tái bản năm 1990, chúng tôi thấy hai bài thơ Em đi tìm anh trên bán đảo BancăngMùa lá rụng của Ônga Bécgôn được in trang trọng, dưới chùm thơ có dòng chữ: Trích “Mùa trăng mong chờ” - NXB Phụ nữ 1985. Tại thư viện Quốc gia, không khó khăn gì để tìm được cuốn Mùa trăng mong chờ, tập thơ nói về tình yêu của các nữ tác giả trong và ngoài nước.

Nhưng thật bất ngờ, Ônga Bécgôn xuất hiện trong tập thơ với hai bài thơ Chiếc móng ngựa ở KhécxônnetMùa lá rụng đều do nhà thơ Bằng Việt dịch mà không hề có Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng.

Trong cuốn sách Almanach nhắc tới đây, ở phần “Những bài thơ tình hay”, Ban biên soạn cũng từng để xảy ra một sự nhầm lẫn: Đó là việc tuyển in bài thơ Bóng đen của nhà thơ Bế Kiến Quốc nhưng lại đề tên tác giả là nhà thơ Đức nổi tiếng thế kỷ XIX Henrích Hainơ. Sự cố này đã gây cho nhà thơ Bế Kiến Quốc nhiều rắc rối và chỉ được giải quyết sau khi Giám đốc NXB Văn hóa (bấy giờ là nhà thơ Quang Huy) có công văn thông báo: Tập thơ Henrích Hainơ nhắc tới trong cuốn sách không hề có bài thơ nào là bài thơ Bóng đen, kèm đó là lời xin lỗi nhà thơ Bế Kiến Quốc vì sự sơ suất của Ban biên soạn.

Trong số những tài liệu mà ông Khổng Văn Đương cung cấp, chúng tôi đã được thưởng thức những bài thơ trong tập bản thảo viết tay của ông từ ngày còn học lớp 10, một số bài thơ làm trên đường sang Rumani, cả một số bài viết tặng Valentina, cô gái Rumani ngây thơ và tội nghiệp.

Đọc những bài thơ ông tặng Valentina như Valentina - tình yêu thế kỷ, Hắc Hải đêm hè, Tình Barasev, Bài ca vĩnh biệt hay Ngẫm mình, có cảm giác những câu thơ ông viết trong lệ trào.

Trong bài thơ Ngẫm mình, bài thơ cuối cùng ông viết trên đất Rumani tặng Valentina có những câu thơ thật đau:

                      Hỡi nhân tâm ở trên đời
                      Tìm cho biên giới lòng người ở đâu
                      Tưởng rằng thời loạn xa nhau
                      Ngờ đâu nay cũng địa đầu cách ngăn
                      Sáu năm ở đất Bancăng
                      Vì yêu để nợ ngàn năm chốn này...

Tuesday, 19 July 2011

Sự thật về người bị nhầm với Onga Becgon

Vào miệt tiêu phương Nam, tôi đã gặp cánh chim sau mùa di trú ấy. Đó là Khổng Văn Đương, người viết bài thơ tình nổi tiếng “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng”, người mới được trả lại quyền tác giả bài thơ từng gây xôn xao dư luận. Đương của ngày nào, của cách đây 43 năm đã bay sang trời Âu, du học ở Rumani sau khi tốt nghiệp cấp III Long Châu Sa của tỉnh Phú Thọ (khoá 1962 - 1965). Số phận đã chia chúng tôi thành hai ngả, người du học nước ngoài, người học đại học trong nước rồi vào bộ đội. Đằng đẵng ngót nửa thế kỷ, số phận lại cho chúng tôi gặp nhau, khi tôi vào phương Nam, tại miệt tiêu giáp ranh tỉnh Bình Dương và Bình Phước, khi cả hai đã xong một đời công tác (đã nghỉ hưu), tóc muối tiêu, cùng dắt hai bà vợ đi cùng.



 Khổng Văn Đương (bên phải)

Tình xuyên quốc gia… đứt gánh

Chúng tôi thuộc lớp người nâng niu kỷ niệm. Tuổi thành người vỡ tan và chiến bại cứ thiêng liêng chẳng thời gian và nước mắt nào xoá nổi. Ra khỏi chặng đời tẻ nhạt đầy ganh đua của đám thư lại thời bình, như một nhà văn lão làng Việt Nam hoài cảm, ngoảnh lại mới thấy thấm cái giá phải trả của chuỗi ngày tập im để đổi lấy sự yên ổn, càng thấy lấp lánh sáng lên chút bụi vàng kỷ niệm của tuổi học trò. Người ta bảo gặm nhấm kỷ niệm là dấu hiệu của tuổi xế chiều, nhưng làm sao quên nổi những ngày đẹp đẽ, tin tưởng, cuồng nhiệt của tuổi 20. Chúng tôi ôm nhau trong miền thiêng kỷ niệm. Ơn trời, ngọn lửa ấy vẫn còn.

Nếu ngọn lửa nguội tắt, hoặc trơn nhẽo bàn tay hờ hững như những con sứa thiếu sinh khí, hoặc mờ đục cái nhìn âm u vô hồn, thì còn gì để nói. Kỷ niệm không như những đồng tiền nhét ví, sau gặp gỡ là phung phí tiêu đến sạch trơn. Khổng Văn Đương đã kể về mình, về vụ yêu đương đầu đời trên đất Ban Căng khi còn là sinh viên du học ở Rumani cùng tập thơ “Tình quê hương” gồm hơn 100 bài thơ của anh đã bị “tổ chức” (hồi ấy) tịch thu, có thể bị cho vào lửa, bởi đã cả gan yêu một cô gái nước ngoài tên là Valentina khi cả nước đang hồi chiến tranh khốc liệt, khi cái chết không từ bất cứ ai mà bọn Đương lại được gửi ra nước ngoài, được chăm sóc như những hạt giống quý, khi đất nước đã dùng đến những hạt gạo trên sàng là lớp sinh viên trong nước cứ hăng hái theo nhau ra mặt trận. Và Đương đã kịp nhận ra nguy cơ nếu không chấm dứt cuộc yêu đương động trời với cô gái có mái tóc nâu màu hạt dẻ, có cặp mắt xanh mênh mông trời Hắc Hải thì sẽ bị trục xuất về nước. Anh đã chọn kết cục ngoài mong muốn là chôn chặt mối tình với Valentina. Còn Valentina của anh đã buồn bã đến phát điên. Lần cuối anh trốn đến Brasov thăm nàng là một ngày buồn thê thảm. Valentina tiều tụy nằm trên giường, ánh mắt vô hồn. Thấy anh, nàng bật dậy, ôm chặt lấy, nức nở kêu tên anh, hôn rối rít trong tràn trề nước mắt. Có thể đó là một ngày buồn nhất trong thời trai trẻ của Đương.

Rồi nàng gửi cho anh môt bức thư đầy bi thiết, đầy oán hận. Nhận thư nàng, anh vô cùng đau đớn và trống vắng. Rồi một chiều tháng 3.1969, chỉ còn một mình bên của sổ, ngoài trời tuyết dày đặc trắng xoá, anh đem thư nàng ra đọc lại. Trong cồn cào nhớ thương và xót hận, Đương đã viết một mạch bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng”, mô phỏng toàn bộ nỗi niềm ai oán, giận hờn và khao khát của nàng trong bức thư kia.
“Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng
Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng”
… Đó là câu thơ mở đầu của dằng dặc cuộc kiếm tìm vô vọng, khi trèo đỉnh Các Pát, khi bàn chân xa lắc tím trời Âu, khi nhức nhối rì rầm dòng Đanuýp, khi dào dạt sóng vỡ Biển Đen… Nữ hoàng tình yêu Valentina của anh đã tìm anh khắp bán đảo Ban Căng, còn anh thì buộc lòng phải trốn chạy. Rồi ngày chia ly đã đến. Ngày 17.6.1971, kết thúc khoá học, các anh lên tàu liên vận từ Bucaret về nước, nàng mảnh mai trong bộ áo pul da trời, váy trắng ướp đầy vạt nắng, chới với vẫy, như cố níu lấy đoàn tàu, giàn giụa nước mắt tiễn biệt, vô vọng, chia ly, khiến thêm một lần trái tim kẻ chạy trốn (là Đương) rỉ máu.

Bài thơ sẽ rơi vào im lặng, sẽ mãi mãi bị người ta gán tên tác giả là Onga Becgon - nữ nhà thơ Nga nổi tiếng (1910- 1975), nếu như năm 1990, Nhà xuất bản Văn hoá không cho ấn hành cuốn sách “Almanach người đẹp và phái đẹp”, trong đó có mục “Những bài thơ tình hay của thế giới và Việt Nam” đã in bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng” ghi tên tác giả là Onga Becgon! Thơ in từ 1990, mãi tới bảy năm sau, người đứt ruột đẻ ra nó là Khổng Văn Đương mới gửi thư tới Nhà xuất bản, yêu cầu xin được đính chính, rồi sự việc rơi vào im lặng. Đương, chàng lãng tử làm thơ cũng chẳng mấy quan tâm nữa.

Cho tới ngày 17- 11- 2004, Báo Văn nghệ công an đã nhận được lá thư của Khổng Văn Đương nhờ gửi tới Trung tâm quyền tác giả Việt Nam thuộc Hội nhà văn Việt Nam, đề nghị hai vấn đề. Một là, xin tiến hành thủ tục theo Luật bảo hộ quyền tác giả của bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng” là của Khổng Văn Đương. Hai là, xin Trung tâm cho in lại bài thơ theo bản gốc được tác giả chép tay gửi kèm. Đương không nhằm bảo hộ quyền lợi vật chất (nhuận bút) mà chỉ xin bảo hộ một điều duy nhất là tránh tam sao thất bản, và đồng ý cho bất kỳ ai cũng có quyền sao chép, sử dụng bài thơ vào mục đích tuyên truyền văn hoá lành mạnh.

Sự rụt rè của Đương một lần nữa khiến dư luận rộ lên và trở thành đề tài cuốn hút của báo chí. Để rồi, chính những bạn bè cùng du học với anh, những cựu sinh viên một thời sống ở Ban Căng, coi tác giả bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng” như một người hùng, từng truyền nhau chép tay bài thơ này, đã lên tiếng khẳng định: Khổng Văn Đương đích thực là tác giả bài thơ tình nổi tiếng ấy.

Khúc vĩ thanh có hậu

Tôi ôm chặt Đương, khi Thượng đế cho chúng tôi được gặp lại nhau. Bên bà vợ yêu từng là sinh viên tốt nghiệp Đại học Dược Hà Nội năm 1971, Đương thì thào vào tai tôi rằng, sau vụ yêu đương ấy, Đương bị khai trừ ra khỏi Đoàn thanh niên. Về nước, sau những thăng trầm, mặc cảm, Đương đã qua những chặng đường gập ghềnh, kể cả tình yêu lẫn sự nghiệp. Năm 1980, Đương được kết nạp vào Đảng. Nhiều năm là chiến sỹ thi đua cấp ngành, cấp thành phố, Đương đã thành Đảng uỷ viên của Đảng bộ Tổng công ty Dược Việt Nam, và suýt thành anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, nếu như không xảy ra trục trặc riêng tư gia đình. Và Thượng đế đã cho anh một cơ hội may mắn nữa. Đó là tháng 7.1979, trong dịp được Tổng công ty Dược Việt Nam cử đi công tác tại Tiệp Khắc, Đương đã gặp lại Valentina, người con gái mà Chúa đã trao cho anh trong chiều bão tuyết tại Bucaret năm 1967, khi nàng 17 tuổi, khi anh còn là chàng sinh viên khoa Hoá tại trường Đại học Bách khoa Georgiu Dej Bucaret Rumani. Nhận được tin Đương, nàng đã cùng chồng và đứa con trai kháu khỉnh có mặt tại Tiệp Khắc thăm anh. Ông chồng người Đức phúc hậu của Valentina đã trao trả nàng cho Đương một tuần. Suốt tuần, mặt trời lại hực nắng Ban Căng. Nàng vẫn xinh đẹp, nồng nàn và hạnh phúc, không như Đương lo lắng. Đó là khúc vĩ thanh có hậu cho tuổi trẻ và tình yêu bị chia lìa, cả khi đôi trẻ đã quỳ lạy, van xin để có được tình yêu không biên giới. 
“Con lạy tạ Giê su ban phép lạ
Cho nước Người hết ly biệt chia phôi
Hai chúng con quỳ trước Người đa tạ
Xin hoà tan làm một, ngàn đời”…
Bây giờ, tình yêu và nụ hôn đầu đời đã thuộc về cõi thăm thẳm. Chúa đã an bài, bù cho Đương một người vợ dịu dàng, xinh đẹp, khi họ đã qua chặng thứ hai của hạnh phúc, cùng dắt nhau bước sang tuổi lục tuần. Chúng tôi cùng vợ chồng Đương rời Thành phố Hồ Chí Minh theo quốc lộ 13 về thăm miệt vườn trang trại của gia đình anh, của các em trai anh ở cuối tỉnh Bình Dương, nơi trước đây hoang vu những khu rừng bị Mỹ rải chất độc hoá học, nơi giờ đây đang sôi động nhịp sống công nghiệp hoá, đô thị hoá với tốc độ ngựa phi đứng đầu cả nước. Vợ Đương là người đa cảm, nhân ái, tự trọng, gốc Huế, thân mẫu thuộc dòng dõi Tôn nữ.

Chị ngồi im trước khúc nhôi dằng dặc đầu đời của chồng, không can thiệp vào cuộc hàn huyên sôi nổi của chồng với khách. Chị đã về quê chồng, lội ruộng, gánh gạch xây lại mộ tổ một nhánh họ Khổng của Đương ở Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ. Họ hàng có bà lặng lẽ theo dõi chị, xếp cho chị gánh gạch thật nặng, thử sức nàng dâu tóc ngắn xem có gánh nổi không. Chị đã gánh và lội vững vàng trên con bờ ruộng bị xén vạt chỉ còn nhỏ bằng hai hàng lúa ấy. Cũng trong lần về quê ấy, vợ chồng Đương đã hiến một số tiền không nhỏ cùng nội tộc xây lại nhà thờ tổ tiên, hỗ trợ làng xã một số việc công đức khác. Còn ở Bình Dương, các em trai đã được Đương đầu tư mỗi người một trang trại mênh mông mấy chục ngàn mét vuông. Đương còn chu cấp lập quỹ hưu riêng cho cô em gái và một số người thân trong nội tộc từ quê vào định cư lập nghiệp tại Bình Dương mỗi tháng đều đặn vài trăm ngàn đồng. Cả khi Đương cho chú em trai hơn chục triệu đồng ăn Tết, nhưng anh chàng đã nướng gọn trong cuộc rong chơi, chọi gà và em ún, khiến vợ chồng Đương lúc đầu tỏ ra thất vọng. Nhưng khi nghe chú em út là Khổng Văn Cường, một sĩ quan Công binh ở Bình Dương đã về mất sức nay làm Chủ tịch xã Tân Long, huyện Phú Giáo phân bua và lý sự vui rằng, tiền bác cả cho bác hai cốt để tìm được niềm vui, nay bác dùng vào cuộc vui thì cũng chả nên phàn nàn nữa. Đương gật gù cho qua, còn bà vợ tốt nhịn của anh thì chắc gì đã đồng ý với kiểu lý sự “ huề cả làng” đó. Vâng, dù có là tiền núi, tiền lương thiện chắt chiu từ mồ hôi nước mắt mà cứ hào phóng thương nhau như thế thì đến Bụt cũng phải xót xa.

Xin hãy đọc lại tập thơ bị “tịch thu” ngày trước

Nửa tháng sau cuộc gặp gỡ ở miệt tiêu nam bộ, đúng hẹn, tôi đã nhận được tập thơ của Đương chép lại theo trí nhớ rút từ hơn 60 bài thơ trong tập “Tình quê hương” anh viết từ năm 1963 đến 1971. Tập thơ bị tịch thu ở Bucarets năm xưa cùng với ngót 90 bài thơ thất lạc khác, gom lại còn 15 bài cả thảy. Tập thơ chia làm 3 phần: Quê nghèo, Bucarets, và Valentina. Sáu bài trong phần Quê nghèo là nỗi thương mẹ, thương em, là tình yêu mơ mộng tuổi học trò sau dịp những học sinh cuối cấp trường Long Châu Sa chúng tôi vượt bến đò Gành, sang Cổ Tiết, vào hang Gió, đi lao động trồng sắn cạnh nông trường Vạn Xuân thuộc huyện Tam Nông bên kia sông Hồng. Tôi thì mê mải ngắm nhìn những quả bứa, quả ngoã lần đầu tiên trong đời được đặt chân vào rừng. Còn Đương biết đâu đã gặp một cô nàng xinh đẹp. Hoặc một chiều trên sông Lô, cậu học trò đa cảm đã cảm ánh mắt long lanh giữa bồng bềnh thơ thới sóng xuôi mà thơ phú. Đương giỏi toán, trong nhóm toán được trường chọn đi thi khu vực cùng với Tạ Văn Lâu và Nguyễn Văn Sứ của lớp 10A. Lâu, nghe nói đã chết đuối ở đầm Con Lợn, nơi ẩn chứa nhiều dấu tích của văn hoá Sơn Vi. Còn Sứ đi Trung Quốc, sau cách mạng văn hoá, trở về nước học tiếp đại học, thành kỹ sư đóng tầu. Sứ hiền lành mà lận đận. Một người giỏi toán mà không giỏi tính.

Đến nay, con nguời gầy gò này vẫn thuộc làu nhiều chương hồi của Tam Quốc diễn nghĩa, vẫn say sưa các định lý toán học, vẫn lơ lửng trên trời mà quên mất định lý lớn nhất của cuộc đời là phải biết hạ cánh xuống mặt đất để làm ăn, để sống. Vợ Sứ đã không chịu nổi cái nghi ngơ ấy, đã lặng lẽ về quê mua áo mới tặng mẹ chồng, rồi bật khóc chào bà cụ rồi chia tay, để lại cho anh hai đứa con gái. Ngờ đâu, 43 năm trước, khi còn học lớp 10 cùng nhau, Đương đã viết bài thơ “Chiều trung du”, đến bây giờ, có những câu thơ còn đứng được nhờ cảm quan văn học và cái nhìn khác biệt. 
“Đồng lúa sương mờ như giăng sữa
Mái tranh khói lượn tựa đuôi diều
Lất phất mưa xuân rơi bụi phấn
Bâng khuâng lòng nhớ một câu Kiều”. 
Câu thơ Đạm Thanh sớm linh ứng vào một đời đào hoa ngay từ năm 19 tuổi, chớm Xuân.

Sót lại trong phần Bucarets còn 4 bài. “Đông châu Âu” lung linh tuyết rơi, nghe tiếng gà gáy, nhớ quê da diết; “Thu vàng” lá rụng, muốn kéo thời gian ngược chiều; “Quê người” được tin đôi mắt sông Lô năm xưa theo người sang sông, buồn muốn khóc….

Nhưng hơn cả nỗi buồn nhớ là tình yêu cháy bỏng trào dâng nỗi tuyệt vọng dồn vào Valentina, chất chứa suốt 5 bài thơ từ “Hắc hải đêm hè”, “Brasov” đến “ Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng”. Cuối cùng là “Tự ngẫm” đầy đau khổ. 
“Sáu năm ở đất Ban Căng
Vì yêu để nợ ngàn năm đất này”. 
Và “Cầu siêu xin biến kiếp người
Thành tơ hồng quấn, ngàn đời vào nhau”.

Đáng nói là khi tịch thu và cho huỷ tập thơ ấy của Đương liệu các nhà tổ chức có biết lẫn trong những bài thơ tình cháy bỏng có cả những bài thơ có lửa, qua thời lửa cháy, qua thời xa vắng và ấu trĩ vẫn không tắt “Valentina - Tình yêu thế kỷ”. Xin trích ra những đoạn, không nhằm bênh vực, bởi mọi sự đã qua. Cái thời cả nước lâm trận, cả nước lạc quan, chỉ được phép tin tưởng, không được phép hoài nghi, thì mỗi sinh linh đất Việt đều có một nỗi đau phải vượt qua, kể cả người trong nước và người tu nghiệp ở nước ngoài. Mỗi người một nỗi đau, chỉ đến bây giờ mới nói ra. Thời ấy cả nước làm thơ, thơ không thể ngoài cuộc, kể cả thơ của những người đang khốn khổ yêu đương ở nước ngoài.
"Em có hiểu tình Anh chứa chan
Nhưng quê anh chinh chiến điêu tàn
Giặc Mỹ đến ném bom rải thảm
Giết trẻ em tàn phá dân làng
Anh sẽ về Việt Nam chiến đấu
Hiến thân mình bảo vệ quê hương
Và mang theo tình em yêu dấu
Đi cùng anh ra khắp chiến trường
Em sẽ khóc thương em vĩnh biệt
Một dòng sông nước mắt tuôn trào
Thân dù chết. Tình yêu không chết
Sống muôn đời như trăng như sao”

Bây giờ, khi đã sang chiều của một đời người trải nghiệm, sau từng ấy năm đoạn tuyệt thơ, tự ngẫm thơ là địa hạt đầy mạo hiểm, dính vào là tai vạ, hơn thế nếu cứ mãi chung nhau một giọng điệu thì thơ sẽ tụt lùi, Khổng Văn Đương người có ba nốt ruồi tròn xếp thành hàng ngang ở xương đòn gánh lại…cầm bút...làm thơ. Phải chăng thơ là điểm đỗ cuối cùng của một đời người, cả người đào hoa lẫn người trận mạc. Anh viết bài “Về quê” đề ngày 5/4/2008, trong dịp về quê thăm Tứ Xã mới đây. Ùa về những kỷ niệm xa vời của quê cha đất mẹ, nhưng cũng canh cánh một nỗi lo thường trực khi 
“Làng quê ta giờ đất chật, người sinh sôi chen vào nhau đông nghịt
Bầu trời chẳng còn trong, chỉ mờ mờ khói sương axit
Ôi làng xưa mà ta khắc vào tim
Và hồn quê trong quá khứ đâu tìm…
Xây dựng lại những ngôi đình làng che mát các em thơ
Nơi các cụ già bàn việc làng, việc nước, làm thơ”.

Không chỉ mơ màng đau đáu trong thơ, Khổng Văn Đương đã làm được việc đúng với lòng mình. Anh muốn gửi về quê chút tiền dành dụm được để cùng quê hương xây lại ngôi đình, như một số người con của Tứ Xã còn nặng lòng thương nhớ cái tổ ấm đã nâng cánh đàn chim bay khắp bốn phương trời, trong đó có anh, một cánh chim đã đỗ ở phương Nam sau mùa di trú.
Cao Văn Định
Nguồn: VieTimes

Sunday, 17 July 2011

Ru ta ngậm ngùi - để cảm xúc thơ thêm day dứt

Sáng tác: NS Trịnh Công Sơn
Trình bày: NS Nguyễn Đình Toàn

Friday, 15 July 2011

EM ĐI TÌM ANH TRÊN BÁN ĐẢO BAN - CĂNG

Khổng Văn Đương

***

Em đi tìm anh trên bán đảo Ban - căng
Tìm không thấy, chỉ thấy trời im lặng
Một mình em trong màn đêm thanh vắng
Tim bồi hồi chân bước vội dưới trăng

Em trèo lên đỉnh núi cao Các-pát
Nhìn theo anh mất hút biết về đâu
Chân ai đi xa lắc tím trời Âu
Dòng nước mắt bỗng trào ra chua chát!

Em lại đến Biển Đen xưa dào dạt
Sóng xô bờ liên tiếp gọi triền miên
Buồn! Chao ôi, gió làm em phiêu bạt
Thân cô đơn kinh khiếp cả trăng hiền!

Ôi dòng xanh rầm rì sông Đa - nuýp
Mây trời in lồng lộng giữa dòng sông
Nên ngàn năm êm đềm trôi một nhịp
Chỉ mình em nhức nhối vết thương lòng!

Hỡi trái đất rộng làm chi bao la
Cho loài người chia biên giới thế gian
Cho sa mạc nổi bùng cơn bão cát
Cho tình anh chưa bén đã lụi tàn?

Em xin hỏi Trời cao và Đức Phật
Cõi Niết Bàn có mãi mãi mùa xuân?
Đâu trời Tây, đâu xa gần Cực lạc
Mà trần gian đầy bể khổ trầm luân?

Con lạy Chúa Giê-su ban phép lạ
Cho nước Người hết li biệt, chia phôi
Hai chúng con qùi trước Người đa tạ
Xin hòa tan làm một, ngàn đời!

Em cầu nguyện. Còn anh anh chẳng biết
Trái tim anh sao giá lạnh thờ ơ?
Và hôm nay dù tình anh đã hết
Em vẫn mong, vẫn hy vọng, vẫn chờ...

Vẫn trèo lên đỉnh cao Các - pát
Vẫn theo dòng Đa - nuýp những đêm trăng
Em lại đến Biển Đen xưa dào dạt
Đi tìm anh trên bán đảo Ban - căng!


Bucarets 19/03/1969

Wednesday, 13 July 2011

Phụ họa đoạn kết bài thơ tiễn bạn

Trang Thơ đã đăng bài thơ tiễn bạn, bài "Lửa Thiêng" của anh Tuấn Linh, và nhận được nhiều ý kiến nhận xét từ phía bạn đọc. Bài thơ của anh đã gây nguồn cảm hứng sáng tác cho một số nhà thơ "cận tương lai". Anh HDT đã "xuất thần" với 3 cái kết khác nhau. Trang Thơ xin đăng giới thiệu cùng bạn đọc. 

Lửa thiêng
Ngọn lửa hỡi,
         chớ vội bùng lên dữ dội.
Chậm lại chút thôi
          Để bạn ta châm điếu thuốc cuối cùng,
Ly rượu dở dang, một đời bạn chưa uống hết,
              Nhỏ giọt lệ xót thương,
                            Xin bạn,
                                  cạn hết lần này.
Con tuấn mã hý vang thảm thiết,
Vó ngựa chồn chân, dừng trước bến biệt ly.
Thì xin bạn, hãy đừng thêm một lần tư lự,
Gian nan này, ta trả lại về
                       nơi cũ, chốn hồng hoang.
Lửa thiêng
Hãy cháy sáng lên,
        sáng chói lên, hơn như là có thể.
Nhanh đưa bạn ta sang sông,
                              về cõi hư vô.
Ở nơi ấy, sẽ không còn đau đớn,
   Tĩnh lặng mặt hồ, trong vắt hình hài.
   Và tinh khôi, và thơ ngây
                Thấp thoáng lại về trong ánh mắt,
   Như lúc được mẹ sinh ra trên cõi trần ai...
Rồi sẽ tới ngày,
      Trên trời xanh lộng gió
              Vọng tiếng acmonica
                      “Hát mãi khúc quân hành”
Ấy là lúc, đồng thanh chúng tôi cùng cất tiếng:
        “Chào anh, Phạm Nguyễn, chào anh!”
Tuấn Linh.09/07/2011




 Ảnh minh họa
 Kết 1: 

Giờ đã điểm,
           bịn rịn mà chi
                           Phạm Nguyễn ơi đi nhé!
Nhớ đừng quên
              chiếc kèn hamonica
Còn chút nợ đời,
                  chúng tôi xin "gửi lại",
                                đi chuyến tàu sau
Hẹn gặp lại
                cùng hát
                       "khúc quân hành". 


Kết 2: 

Giờ đã điểm,
           bịn rịn mà chi
                           Phạm Nguyễn ơi đi nhé!
Xin đừng quên
              chiếc kèn hamonica
Còn chút nợ đời
                  lại chót ham vui
                             Bọn tôi đành "gửi lại"
Chờ tới lượt mình
                  bình thản "trở về"
                                 trên những chuyến tàu sau....

Kết 3:


Đường xa lắm,
               Phạm Nguyễn ơi xin rảo bước
Lẻ loi một mình
         nặng cây thánh giá trên vai...
Kiếp nạn cuối?
             Kiếp nạn đầu?
                          nào ai biết được
Hẹn gặp lại nhau
                  ta lại hát
                          lại cười...!

Sunday, 10 July 2011

Bài thơ tiễn bạn

Thu nghe đâu đó tiếng nức nở, nghẹn ngào nhưng không bi lụy trong "Tiễn chị" khi đọc "Tiễn đưa Phạm Nguyễn" của anh Tuấn Linh. Giờ phút chia ly thật buồn, bao giờ cũng thế. Những giọt nước mắt chực trào dâng, nghẹn lại. Cuộc chia ly lần này không như những cuộc chia ly khác. Cuộc chia ly tưởng như là vĩnh viễn. Nhưng không, với Thu không hẳn là thế. Khi mà ai đó vẫn còn trong tâm tưởng của chúng ta, khi mà ai đó vẫn có thể cảm nhận được những tình cảm mà chúng ta dành cho họ thì người đó sẽ sống mãi. Bài thơ "Lửa thiêng" của anh Tuấn Linh được đăng lần đầu trên trang Cựu học sinh K3 trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi ngày 9/7/2011 và ngay sau đó được anh Trần Bắc Hải phổ nhạc thành bài hát "Lửa thiêng" đăng trên trang bank5troi ngày 10/7/2011. Bài hát do chính tác giả trình bày. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Trang Thơ cả 2 tác phẩm.

Lửa thiêng




 Ảnh minh họa
Ngọn lửa hỡi,
         chớ vội bùng lên dữ dội.
Chậm lại chút thôi
          Để bạn ta châm điếu thuốc cuối cùng,
Ly rượu dở dang, một đời bạn chưa uống hết,
              Nhỏ giọt lệ xót thương,
                            Xin bạn,
                                  cạn hết lần này.

Con tuấn mã hý vang thảm thiết,
Vó ngựa chồn chân, dừng trước bến biệt ly.
Thì xin bạn, hãy đừng thêm một lần tư lự,
Gian nan này, ta trả lại về
                       nơi cũ, chốn hồng hoang.

Lửa thiêng
Hãy cháy sáng lên,
        sáng chói lên, hơn như là có thể.
Nhanh đưa bạn ta sang sông,
                              về cõi hư vô.
Ở nơi ấy, sẽ không còn đau đớn,
   Tĩnh lặng mặt hồ, trong vắt hình hài.
   Và tinh khôi, và thơ ngây
                Thấp thoáng lại về trong ánh mắt,
   Như lúc được mẹ sinh ra trên cõi trần ai.

Rồi sẽ tới ngày,
      Trên trời xanh lộng gió
              Vọng tiếng acmonica
                      “Hát mãi khúc quân hành”
Ấy là lúc, đồng thanh chúng tôi cùng cất tiếng:
        “Chào anh, Phạm Nguyễn, chào anh!”

Tuấn Linh.09/07/2011

***
Lửa thiêng

Kính tặng hương hồn anh Phạm Nguyễn

Nhạc: Trần Bắc Hải - Thơ: Tuấn Linh

Wednesday, 6 July 2011

POMAHC (Romance)

                     ......."Dù tình yêu có tự trái tim ta
                    Dù em chỉ là người đầu tiên khơi tình yêu bốc cháy
                    Ai có thể không tin điều đơn giản ấy
                    Em - Mặt trời của lòng anh" ......
(NS)

 
POMAHC
Đỗ Trung Việt

Trước kia ta đâu có cảm giác này
Cái xao xuyến của những đêm trăng một mình đứng gác
Niềm vui tràn đầy lòng người, trước bầu trời mưa tan, trong vắt
Và của bình minh huy hoàng, vạn vật như giữa giấc mơ.

Lại trở về ta những kỉ niệm tuổi thơ
Xúc động mà êm đềm, ôi tiếng hát của cái thời quá đẹp
Cũng những cảm xúc ấy thôi, mới hôm qua đây thiếu em, anh không biết
Mà giờ đây thiên nhiên như bừng giấc dưới mặt trời
Như dòng sông mênh mang nước xiết
Ta hiểu rằng mình đang yêu!...

Thầm yêu em, dù em không hề biết
Và đôi mắt kia chỉ nói quá ít lời
Nhưng ta hiểu hơn ai và hơn bao giờ hết
Cội nguồn của ánh sáng diệu kì kia
Của niềm vui lâng lâng kia
Và của những kỉ niệm tuổi thơ bỗng đẹp thêm lên kì lạ
Của niềm tin ở trái tim con người trước tình yêu ngây thơ trong trắng quá
(Dù giờ đây, bên niềm vui còn có cả những nỗi buồn)
Chính là nụ cười nơi đôi mắt em
Bởi tình yêu ta là tất cả những gì trong lành của tuổi trẻ
Tinh yêu ta được tô đẹp bằng màu xanh của con đường mà ngày nhỏ
Với niềm vui vô tư chúng mình từng đi qua
Ngày ấy...chưa biết em, ta yêu bầu trời đầy sao
Và tưởng có các nàng tiên trong truyện cổ
Bây giờ...vẫn cảm xúc trong lành khi nhìn bầu trời sao đó
Mà nàng tiên trong truyện lại là em...

Người ta nói: tình yêu có tự trái tim mình
Mà em chỉ là người đầu tiên khơi tình yêu trong anh thức dậy
Không! Chính em đã mang lại cho anh ánh sáng trong lành ấy
Thứ ánh sáng làm trái tim bốc lửa mà tâm hồn thêm trong sáng êm đềm
Làm sao có thể không tin điều đó được
Khi nhìn vầng trăng anh cũng thấy ánh mắt em!
(1971-1972)

Tuesday, 5 July 2011

Một chút tâm linh

Khi Tualinh đăng bài "...mở to bài "The Final Countdown"cho Trung Việt nghe!", em chợt nghĩ giá như có bức ảnh chân dung, anh ấy có thể nghe được bài hát mình yêu thích. Giờ đây, nghe các anh luận bàn về "Hà nội phố" nhắc đến tên TV, em nghĩ nên "mời" anh ấy vào Trang Thơ, nơi có đăng những bài thơ anh sáng tác, những bài thơ anh yêu thích và cả những người bạn từ thuở thiếu thời. Cảm ơn Tualinh đã đồng ý với đề nghị của em và em nghĩ anh HDT chắc cũng không phản đối. Có một điều kỳ lạ, mọi người có thể không tin. Em cảm nhận được sự hài lòng từ anh ấy.

Friday, 1 July 2011

Cảm tác theo: Hà nội phố! em ơi!

Em ơi! Hà nội phố
Ta còn em
        Phút giây đầu bỡ ngỡ
Chiều Halle vi vút gió heo may
Hoa sữa rơi
vương lên áo ai gầy
lời ước hẹn, ngẹn đầu môi chưa dám tỏ.

Đưa bé ngoại ô
Tần ngần hè phố
Nghe tiếng còi tầu
Mơ một chuyến đi xa

Ta còn em
Bãi nặng phù sa
Sông Hồng nắng mỗi chiều tan học
Lặn ngụp
Nhuộm tuổi thơ sắc đỏ Bạchđằng giang

Ta còn em nỗi nhớ mênh mang
Ngày ra trận
Thương phố phường ở lại
Gác Khuê văn có còn ai mê mải
Ngắm trăng xưa
Mà nhớ tích Thăng long

Ta còn em
Nỗi nhớ mùa Đông
Khăn ai bay
Thoảng như sương khói

Ngẩn ngơ
Ngõ nhỏ
Còn vương mùi dạ lan

Em ơi Hà nội phố
Ta còn em những xóm đèn mờ
Em gái
Không nghề
Hắt hiu phố vẫy
Tên maco nhăn nhở
Đạp chân lên đầu cô gái bán hoa

Ta còn em mỗi sáng ngày ra
Kim tiêm chích rắc đầy hè phố
Rác ngập đường
Chắn lối vào ngõ nhỏ
Tiếng xe nẹt po
Phá nát giấc mơ trưa.

T.Q.Trung - 7/2011