Monday, 30 July 2012

Gửi Vũ


  Tranh " Đường về nhà" 
của hoạ sĩ Joanna Tinsley
Chim kêu buổi sớm
Ngựa hý chiều tà
Có một ngọn núi
Đã trở về nhà
Có ngàn dặm cỏ
Còn đi ngoài xa
Liễu biếc tháng ba
Sen hồng tháng bảy
Liễu xác, sen tàn
Tóc buồn xanh mãi
Sương sa biên tái
Mưa trắng kinh kỳ
Cườm tay lục bảo
Nửa đời phân ly
Sao không về đi
Duyên người đã hết
Cánh cửa nhà ta
Tháng ngày lưu biệt
Một đêm ngà ngọc
Nghìn đêm đợi chờ
Nét mày đan phượng
Cháy mùa tương tư
Người đẹp thường hư
Vàng son dễ nát
Quanh quẩn xiêm y
Thế gian lầm lạc
Về đây rượu chát
Vịn cành mằn hoa
Ngẩng mặt là núi
Bình yên hiên nhà
Chim kêu buổi sớm
Ngựa hý chiều tà
Hoa đào rắc lối
Người về từ xa...
(Nguồn: Blog cá nhân của tác giả)

Friday, 27 July 2012

Mẹ ơi, cho con ở lại

“Con nằm đây, giữa cát bỏng Trường Sa
Bên bờ sóng vỗ
Đã sắp mười năm
Sẽ lại mười năm nữa
… mười năm nữa…
- Tuổi hai mươi sáu con như cánh buồm neo bến đậu
Chờ buổi tốt trời, gióng hướng ra khơi
Mẹ ơi
Mỗi sớm mai lên mẹ trông về phía mặt trời
Coi như mẹ
Vâng, đã thấy con của mẹ
Nước đại dương vốn nồng nàn sẽ thay thế vòng tay của mẹ
Ủ ấp con qua tháng năm dài”

“Mẹ may hơn bao bà mẹ trên đời
Những bà mẹ
Của suốt mấy chục năm tiễn những đứa con ra trận
Những bà mẹ
Ngày quê nhà tan bóng giặc
Không rõ con mình nằm lại ở nơi nao (?)

- Đất nước mình
Hơn bất cứ đất nước nào
Từng ngọn cỏ
Bờ khe
Từng vuông cát nhỏ
Từng ngọn sóng lô xô
Đến từng làn gió
Đâu đâu cũng đất nước nhà
Đâu đâu cũng có những đứa con rời mái nhà mẹ ra đi
Và nằm lại.
- Mẹ may hơn bao bà mẹ trên đất nước mình
Đêm đêm mắt ngóng, tai nghe “nhắn tìm đồng đội
”Đêm đêm ... buông tiếng thở dài
Chờ đợi
Mẹ ơi
Các mẹ ơi
- Cho con ở lại,
Chúng con xin ở lại”



Gia đình bên chồng Thu có người anh trai hy sinh vì nước khi còn rất trẻ. Anh nhập ngũ năm 1965 khi mới 22 tuổi. Ngần ấy năm gia đình không nhận được tin tức. Năm 1975, sau khi giải phóng, gia đình nhận được giấy báo tử. Tờ giấy ghi anh hy sinh ngày 13/2/1966 tại mặt trận phía nam, đơn vị KT. Thông tin quá ngắn ngủi, dù đã đi tìm cho đến giờ gia đình vẫn không biết anh nằm ở đâu. Đọc bài thơ, Thu rất xúc động. Cầu mong hương linh của Anh, đâu đó trong lòng đất mẹ giữa những đồng đội, cùng hương linh của tất cả những người lính trên khắp đất nước được thanh thản và siêu thoát.

Wednesday, 25 July 2012

Lời cảm ơn


Thu Hà xin gửi tới các anh chị và bạn đọc Trang thơ lời chào trân trọng! TH cũng xin được gửi lời chân thành cảm ơn các cô bác, anh chị, các bạn và các em đã nhiệt tình ủng hộ để "thơ vườn nhà" cũng được dịp trổ hoa, kết trái. Nhân đây, cho phép TH được gửi lời cảm ơn tới tác giả bài thơ "Bức Tranh"- Anh Tuấn Linh- người đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho bài thơ hoạ của anh Trần Quang Trung và TH sau này. Cảm ơn bạn Hồng Thu đã tạo ra một sân chơi đặc biệt hấp dẫn, đầy tính sáng tạo và rất nhân văn này. TH cũng xin được chúc sức khoẻ các anh chị HNN, BL, TQT, TL, HG, HDT, TP, Bảy Tàng...cùng toàn thể các anh chị và các em. Thời gian qua Thu Hà đã vắng mặt trên diễn đàn vì lý do cá nhân. Thu Hà hy vọng sẽ tiếp tục đóng góp cho TT bằng một số bài thơ dịch từ tiếng Nga mà TH rất yêu thích  trong thời gian không xa!

Monday, 23 July 2012

Lẳng lặng mà nghe...

BỨC TRANH 


Mưa
Rắc sợi bạc
giăng giăng ngoài ô cửa,
im lặng ,
Rừng bạch dương,
tối sẫm màn đêm.

Những phím đàn
im lìm vào giấc ngủ,
nho nhỏ chùm hoa hòa thảo
ủ rũ rúc vào nhau,
Lịm tắt tiếng ngân nốt nhạc cuối cùng.

Quầng sáng mờ ảo,
Dư âm
Bản “Sonata Ánh Trăng” *
ngập ngừng lật trang sách nhỏ, …

Chênh vênh những dòng thơ,

Như …
còn dang dở
một mái tóc đen
lượn sóng mượt mà,

Như …
vừa khép lại
một đôi mắt nhung huyền,
buồn sâu thăm thẳm..

Như …
có một CON NGƯỜI
Vội đi…
Bỏ quên đâu…
Một tẩu thuốc ngậm môi

Đêm sâu,
mơ màng …
dịu dàng hơi thở nhẹ.
Thu đến…
Thu đi…?

Trong khuya vắng
Vần thơ ai **
Đọng lại ,
Chỉ nơi đây,
mãi mãi…
một khoảnh khắc này.

Tuấn Linh 08/2011

HỌA THƠ TUẤN LINH


Nắng
Rót lửa hồng
Chang chang trên mái tôn
Ồn ào
Vườn Hồng đào
Sáng bừng ngày mới.

Tiếng động cơ
Xóa tan những giấc mơ
Lảo đảo những vai gầy về chợ
không một lời ca thán
lặng yên muôn thuở dân tôi

Bóng đêm tối thui
đọng lại
Bản hùng ca chiến thắng
vừa hát lúc chiều đã vội vã quên.

Hừng hực những vần thơ

viết
về những ngày lửa cháy
những chiếc đầu lâu
tắt lịm tiếng cười
viết
về những người con gái
một thời hăng hái
lăn lóc Trường sơn
Và bây giờ
mỏi mòn
trông đợi một đứa con không cần bố
để tuổi già
không cô đơn
Những đôi mắt bồ câu
Những đôi môi hồng nồng cháy
Còn đâu?

Xuân đã qua
Xuân có còn ở lại?
Trong khuy vắng
Vần thơ ai
Đọng lại
Chỉ nơi đây
Còn mãi
Những khoảnh khắc
Đắng cay
cho những ai
yêu một lý tưởng
Tràn đầy.

Trần Quang Trung 20/7/2012

HỌA THƠ
Thu
      dứt chiếc lá
                        lặng thầm trong khuya vắng.
Bầu trời
             đêm ẩn hiện
                                một vì sao hôm.


Lặng lẽ, cô đơn
              người hoạ sỹ
                          thu mình trên bức tranh tường
                                     cố vẽ cho xong hình chiếc lá.

Sớm mai đây
         mùa đông về vội vã
                  bên khung cửa sổ nhìn ra,
Cô bé chợt vỡ oà:
                  chiếc lá cuối cùng
                                     chưa vội rời xa...

(Thu Hà phụ họa bài thơ "Bức tranh" của T/G TL dựa theo truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" của nhà văn Mỹ O. Henry)

Monday, 16 July 2012

Tưởng nhớ trăng thơ Hàn Mặc Tử

NHÀNH HOA VIẾNG
    HÀN  MẶC TỬ
                      

Nhiều lần qua Quy hòa
Chỉ trên đường công tác
Tôi vẫn nghe biển hát
Vẫn nhớ trăng thơ Hàn .

Tôi yêu ánh trăng tan
Trên mặt hồ đầy gió
Yêu vầng trăng bỡ ngỡ
Thẹn thùng sau hàng dương

Và yêu nắng chang chang
Trên một dòng sông trắng
Nơi chị tôi gánh nặng
Cuộc đời cùng thương em .

Qua bao cuộc lãng quên
Có một nhành hoa nhỏ
Gọi tên giờ nghe lạ
Hoa : XIN ĐỪNG QUÊN TÔI .

 Ngày 11 tháng 7 năm 2012
            HOÀNG  GIANG

Saturday, 14 July 2012

THÁNG BẢY


NGUYỄN CHÂU ÁNH DIỆU 

Chiều nhớ loài hoa vàng như nắng
Tháng bảy bình yên tôi thật vắng
Nhìn ra phố nắng nở hoa trên những thân người


Con đường dài tôi hong tháng bảy
Bổ túc cho nỗi nhớ lên xanh
Tháng bảy như đầm sen lớn
Và màu nắng đàng hoàng vẽ tháng bảy lên tôi

Bỗng đổ về cơn mưa bóng râm
Và sẫm màu nhung nhớ. Và con đường chột dạ
Tôi nhìn vào tháng bẩy thấy trơ vơ.


Cò con hay là Cello tháng Sáu


có con cò con vuốt lưng mình sau buổi kiếm mồi mệt lả
cái lưng ong mỏi rời
hay là đêm đã giậm châm quá mạnh?
có con cò con rũ lông mình khi tắm ánh trăng suông
chiếc áo cũ lung linh
hay là nghèo không mua nổi manh áo mới?
tháng Sáu không chơi dương cầm
mà chùi chân leo lên cao nằm nghe cò hát mướn
có gì đó mới hơn rơi từ trên vai xuống đất
mọc cello xiên xéo chân cò
hát ốm o. tiếng buồn xo. tháng Sáu đắn đo nguyên ngữ
có lẽ tôi nên viết bài thơ cho em Tóc
có lẽ tôi nên gửi thư cho em Mây
có lẽ tôi nên làm lành với em Bão
và có lẽ tôi nên nhường em Sóng để xin về chút gì trăng trắng
thương quá ơi cò ơi. chân con con mà nát đầy những dấu
cho tôi xin một đêm cò cởi trần
cho tôi xin một đêm trắng ngần
cho tin xinh một chiều lẩn thẩn
hay nếu không, cho tôi mua năm mười mẩu vụn
cái thân cò xanh rớt sẽ ngủ ngoan
tôi vừa nghe tháng Sáu vội gom đầy của nả
đổi lấy một ngày
thì ra, tháng Sáu nhân từ hơn chúng mình, cò ạ! 

Ôi cánh đồng quê

Bài thơ của nhà thơ Trịnh Hoài Giang. Bản dưới đây có thể là một dị bản do truyền tụng qua nhiều người. Nghe câu dự án mà đau đớn lòng... Bài thơ nóng hổi tính thời sự khi ta biết rằng việc « mở rộng địa giới thủ đô » không còn là dự án mà đã được Quốc hội « nhất trí thông qua ». (Theo Forum).

Bây giờ ruộng đã bê tông
Cây đa đã cụt giòng sông đã què
Mái đình đã phẳng đường xe
Còn đâu cánh võng mà nghe chuông chùa
Hội làng thì đã ngày xưa
Thôi anh đừng có tiễn đưa làm gì
Em chào thầy mẹ em đi
Làm ô-sin chẳng biết khi nào về
Heo may thổi dọc triền đê
Nghe câu dự án mà tê tái lòng
Người đi thì đã ngàn trùng
Người về đất có còn không mà về
Giật mình nửa tỉnh nửa mê
Cánh đồng quê, cánh đồng quê, cánh đồng...

Trackback URL: http://www.vnweblogs.com/trackback.php?id=83708
Theo blog Phạm Xuân Nguyên 

Theo yêu cầu

Thu Hà có ý định dịch lại bài thơ dưới đây. Do trang Blog cá nhân của bạn đang để chế độ khóa nhận xét. Thu đăng bài bên Trang Thơ để bạn vào lấy.

"Я не люблю тебя; страстей""Không, tôi nào nữa yêu em..." (Người dịch: Thuý Toàn)
Я не люблю тебя; страстей
И мук умчался прежний сон;
Но образ твой в душе моей
Всё жив, хотя бессилен он;
Другим предавшися мечтам,
Я всё забыть его не мог;
Так храм оставленный - всё храм,
Кумир поверженный - всё бог!
Không, tôi nào nữa yêu em;
Mộng xưa đau đớn, cuồng điên qua rồi;
Nhưng nơi sâu kín lòng tôi
Hình em vẫn sống tuy vời vợi xa;
Đã say mộng mới thiết tha
Nhưng hình ảnh ấy dễ là đã quên;
Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng,
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ!

Wednesday, 11 July 2012

"CON NỢ" CỦA NHÂN GIAN

"Nhà phê bình cần tri thức và bản lĩnh. Tôi thấy mình có cả hai." Phạm Xuân Nguyên đã nói một câu rất ngạo như thế.

Tôi từng cộng tác với nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhiều lần, nói nhờ vả thì đúng hơn, và lần nào cũng lắm sự không thể không viết thành chuyện. Phạm Xuân Nguyên thì khối người nhờ vả, và cái tính cả nể của anh đâm thành giai thoại. Nhà văn Nguyễn Quang Lập có lần nói rằng Phạm Xuân Nguyên là người không thể nói "không". Từ sáng chí tối, anh "được" vô số lời mời, mời hội thảo, mời tọa đàm, mời khai trương, mời ra mắt sách, cả mời tiệc tùng đình đám, và "bị" nhờ, nhờ viết bài cho báo, nhờ dịch sách, nhờ viết tiểu luận, phê bình, nhờ làm MC, nhờ đọc tham luận, nhờ nhận xét, nhờ đủ thứ nhờ. "Được" hay "Bị", cái gì cũng cả nể mà không thể nói "không". Thật bi kịch khi Thượng đế không cho Phạm Xuân Nguyên 48 tiếng một ngày nhưng lại ban cho cái "đức" luôn luôn nói "có". Thế mới sinh ra chuyện.
Thoạt đầu tôi không biết điều ấy, mới nhờ Phạm Xuân Nguyên viết giùm cho một lời giới thiệu đầu sách. Là tôi được nhà xuất bản đề nghị đứng ra tuyển chọn một tập 18 tác giả trẻ. Lần đầu tiên làm việc này, tôi tâm huyết lắm. Và sau khi chọn chọn lựa lựa, tính tới tính lùi, tôi quả quyết rằng không ai khác có thể thực hiện được công việc rất quan trọng này giùm tôi ngoài Phạm Xuân Nguyên. Anh nhận lời ngay, một cái gật đầu rất sốt sắng (là lúc ấy tôi cảm thấy thế). Ngày hẹn trả bài đã đến, tôi gọi điện cho Phạm Xuân Nguyên. Anh bảo anh chưa xong, và nói bằng một giọng nghiêm trọng như đang khảo cứu một công trình lớn "Anh biết cuốn này em mất nhiều công sức, anh đọc cũng thấy thế nên muốn viết cho thật kỹ". Tôi cảm động lắm, lại cảm ơn rối rít và hẹn ngày trả bài.
Cùng hôm ấy, tôi đến công ty phát hành đã đặt hàng tôi tập sách. Tôi khoe rằng cuốn sách sẽ rất oách, vì chính Phạm Xuân Nguyên đã nói rằng "Anh biết cuốn này...". Chị giám đốc cười rộ "Ôi dào, ông ấy nói thế đấy. Đây này, vẫn còn nợ đây hai cuốn sách dịch hơn năm nay chưa trả được". Gặp biên tập viên của NXB Phụ nữ, tôi lại khoe về cuốn sách tuyển chọn đầu tay, và để chứng minh cho chất lượng của nó, chẳng gì bằng trích dẫn lại lời của Phạm Xuân Nguyên "Anh biết cuốn này...". Chị biên tập viên cười mím chi "Bác ấy nói vậy thôi, là lười chưa làm. Bác ấy vẫn còn nợ bên chị mấy việc đã xong đâu". - "Không, nhưng mà anh Phạm Xuân Nguyên bảo đã đọc cuốn của em rất kỹ...". Tôi chạnh lòng vì "công trình" của mình có vẻ bị phủ nhận, đành nói vớt mấy câu thế. "Thôi, có khi bác ấy còn chưa đọc đâu.", chị biên tập phẩy tay rồi nói sang chuyện khác.
Đến chiều, nhà văn Nguyễn Quỳnh Trang, phóng viên báo Thể thao&Văn hóa gọi điện cho tôi có công chuyện. Quỳnh Trang cũng có một tác phẩm trong tập. Nhân tiện tôi báo cho cô biết tập sách đã hoàn thành, chỉ còn chờ lời bạt của Phạm Xuân Nguyên nữa là đưa vào máy in. Tôi nhắc lại "Phạm Xuân Nguyên đã bảo rằng...". - "Ôi trời," Quỳnh Trang cắt ngang lời, "thế thì chị chờ còn lâu. Phạm Xuân Nguyên không có thời gian để làm việc ấy đâu. Chị không biết rằng nếu Phạm Xuân Nguyên nhận lời hẹn với ai mà trên đường đi gặp một người khác là chú ấy rẽ ngang vào quên ngay cuộc hẹn thứ nhất à?". Rồi Trang mắng tôi xơi xơi "Mà sao chị lại cứ nhờ ông ấy vào lúc này. Báo Tết bên em đang chờ bài của Phạm Xuân Nguyên, ngày in đến nơi rồi mà em phải giục suốt từ hôm nọ đến giờ. Thôi thôi, chị đừng nhờ vả gì nữa để chú ấy viết bài cho bọn em cho xong đi".
Lần này thì tôi tổn thương ghê gớm. Tôi gọi điện ngay cho Phạm Xuân Nguyên với vẻ không hài lòng. Tôi trách rằng tại sao anh nợ nần nhiều như thế mà còn nhận lời viết cho tôi. Phạm Xuân Nguyên bảo yên trí, yên trí, nợ rồi sẽ lần lượt được trả hết.
Từ bữa đó, niềm tin trong tôi bị lung lay. Tôi bắt đầu ráo riết "thúc nợ".
•-         Đây, đêm nay anh sẽ ngồi viết. Sáng mai em mở hộp thư ra sẽ thấy bài.
Tôi yên trí ngủ ngon.
Sáng sớm khấp khởi mở máy tính, vào mailbox. Không thấy bài.
•-         Em chưa thấy bài? Anh gửi lại đi.
•-         Vậy à? Thế thì anh còn đoạn kết nữa, nhất định đêm nay sẽ hoàn thành nốt.
Tôi chờ ngót một tháng sau mới nhấc máy điện thoại nhắc nhở "đoạn kết".
•-         Đúng 7 giờ sáng mai là em sẽ nhìn thấy bài. - Phạm Xuân Nguyên tuyên bố chắc nịch như thế.
Tất nhiên đến 7h tối hôm sau trong mailbox của tôi vẫn chỉ thấy toàn thư rác của Agoda, Airasia và Vietnamairline.
Trong khi đó, phía công ty sách liên tục giục giã "Em ơi, hay là thôi mình cứ in đi nhé. Hoặc em nhờ người khác. Chị nói rồi. Bác ấy không viết đâu".
Không. Tôi có thói quen đã làm việc gì là làm đến cùng, và cái việc thúc giục một "con nợ gan lì" như Phạm Xuân Nguyên cũng phải làm đến cùng.
Đúng đợt đó là Hội nghị quốc tế Văn học Việt Nam, tôi biết Phạm Xuân Nguyên đến đấy sẽ "sa vào lưới" của vô số những bạn văn trong nước và quốc tế. Tôi gọi điện ốp và ngạc nhiên khi thấy đang giờ "hot" của hội nghị mà Phạm Xuân Nguyên lại ở nhà.
•-         Đây, tôi phải ở nhà để viết bài cho chị. Có dám đi đâu đâu. Ai gọi điện mời mọc tôi cũng từ chối hết.
Tôi lại cảm động lắm lắm. Sáng hôm sau gặp Phạm Xuân Nguyên tại hội nghị. Như một phản xạ có điều kiện, lập tức tôi gào lên từ "Bài" thay cho câu "Chào".
•-         À, đúng chiều nay anh sẽ gửi.
•-         Sao lúc chiều qua anh bảo anh đang ngồi viết?
•-         Ừ thì... viết được nửa bài rồi thấy bí, đứng lên để đến đêm viết tiếp.
•-         Đêm viết tiếp thì bài đâu?
•-         Thì anh viết rồi thấy không ưng lại... xé đi viết lại.
Vẫn giọng nghiêm trang như đang đứng giữa hội thảo quốc tế. Trời đất Quỷ thần ơi. Cứ thế này thì phát điên lên mất.
Tôi biết Phạm Xuân Nguyên chưa đụng bút được chữ nào. Lần cuối cùng gọi điện thúc giục, tôi nghe tiếng chuông đổ một cách giận dữ khác thường, tôi đồ rằng Phạm Xuân Nguyên sẽ "trốn nợ" mà không dám nhấc máy, ai ngờ nhấc ngay sau hồi thứ hai. Miệng tôi còn tròn vo chưa kịp trút hết nỗi điên tiết thì từ đầu dây bên kia, giọng xứ Nghệ đã đều đều cất lên, nghiêm trang và kính trọng:
•-         Dạ thưa chị, em đây ạ. Chị có điều gì chỉ bảo?
Khuôn miệng tròn vo lại kéo ngang đến mang tai. Vừa buồn cười vừa tức anh ách. Và tôi đồ rằng mình không phải là người duy nhất ở nước Nam này điên tiết với Phạm Xuân Nguyên như thế.
Sau bận ấy thì tôi giận thật. Phạm Xuân Nguyên đành nói cùn "Càng tốt. Càng đỡ bị nhờ vả". - "Ừ, lần sau em cũng chẳng dám nhờ anh nữa".
Nhưng rồi tôi vẫn cứ phải nhờ vả Phạm Xuân Nguyên. Thiên hạ có tức thế nào thì tức, tức như phải đấm lần sau vẫn đành hạ giọng nhờ. Nhiều lần, nhà xuất bản tổ chức lễ ra mắt tác phẩm của tôi. Không thể nhờ ai khác ngoài Phạm Xuân Nguyên làm MC, dù rất không muốn nhún nhường năn nỉ một người mà mình đã tuyên bố "không thèm nhờ vả gì nữa". Người có khả năng hoạt ngôn, mà lại hoạt ngôn trong lĩnh vực văn học dường như tìm không nổi người mà đếm trên đầu ngón tay. Có Phạm Xuân Nguyên, người ta yên tâm chương trình dù bị phát sinh rắc rối, dù có khuyết thiếu, dù xuất hiện thêm nhiều thành phần quá khích vẫn thành công trong tiếng cười hỉ hả. Phạm Xuân Nguyên hoạt ngôn cả trên bàn tiệc cũng như trước sân khấu lớn, trước công chúng trong nước cũng như quốc tế. Dường như anh có cái biệt tài thâu tóm mọi đầu mối trong khán phòng để tung hứng với kho ngôn ngữ và chữ nghĩa lúc nào cũng đầy ắp. Thậm chí còn có thể biến một bài diễn văn rất dở và tẻ nhạt của một cử tọa thành điểm nhấn ấn tượng và hài hước. MC là viết tắt của từ Master of Ceremony (Người làm chủ buổi lễ) và Phạm Xuân Nguyên luôn trở thành người chủ của mọi buổi lễ mà anh tham dự. Đâm ra Phạm Xuân Nguyên thành rất "đắt sô". Từ talk show của Hội đồng Anh, tọa đàm văn học của Hội nhà văn, họp báo ra mắt sách cho đến các hội thảo văn học lớn nhỏ đều không thể không mời MC tay ngang này. Có bận một cháu bé lớp bốn khoe với chúng bạn rằng cái bác trên ti vi kia là bạn của bố tớ. Thế là nhân một sự kiện của nhà trường, "bố tớ" năn nỉ bạn quý Phạm Xuân Nguyên đến dẫn chương trình, giao lưu với các cháu. Nhà văn Trần Thanh Hà có lần bình luận rằng "Đến nói chuyện với các cháu lớp bốn, bác ấy còn nói được..."
Việc nước đã thế, đến việc tiệc tùng Phạm Xuân Nguyên cũng không thoát khỏi cảnh bị chèo kéo. Không biết có khi nào anh nghĩ rằng thiên hạ "giành giật" anh để nhờ vả hoặc chỉ để uống một ly rượu là sự khốn khổ hay hạnh phúc. Những bàn tiệc có anh không khi nào ngớt tiếng cười. Phạm Xuân Nguyên có một kho chuyện như cái nồi Thạch Sanh không bao giờ cạn. Hay có đôi khi, chỉ một cách chơi chữ, một từ phát kiến hoàn toàn mới cũng khiến cho những người cùng bàn phì cười bó tay trước kẻ mà sự phản ứng nhanh nhậy trong các nơ ron thần kinh dường như tỉ lệ thuận với tuổi tác. Phạm Xuân Nguyên có sự thông minh, hóm hỉnh và vừa khiêm nhường, vừa cao ngạo đặc thù của một ông đồ xứ Nghệ.
"Nhà phê bình cần tri thức và bản lĩnh. Tôi thấy mình có cả hai." Phạm Xuân Nguyên đã nói một câu rất ngạo như thế. Ngạo mà không ai trách. Ngạo mà không ai ghét. Người ta thường có một câu nhận xét rất chung về Phạm Xuân Nguyên "Gã này cực kỳ thông minh". Cho đến giờ này, Phạm Xuân Nguyên là người duy nhất ở Viện Văn học chỉ có bằng cử nhân, và là một trong số rất ít những người thuộc giới viết lách, phê bình chuyên nghiệp mà lại chưa in sách, chưa khi nào có ý gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam. Phạm Xuân Nguyên chả lấy đó làm điều. Đi đâu còn phàn nàn rằng "Cũng là hạn chế đấy, vì nhiều trường đại học muốn mời tôi về giảng mà tôi chỉ có bằng cử nhân". Chuyện này làm tôi nhớ đến nhà thơ Trần Hòa Bình, người chưa bao giờ in một tập thơ khi còn sống, chưa có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam, và thấy loay hoay làm tiến sĩ một hồi rồi lại bỏ ngang, xách ba lô lên rừng xuống bể. Chỉ những người rất tự tin vào tri thức của mình, chỉ những người đã có danh tiếng, danh vị mà coi nó như thứ phù du mới có thể đứng giữa thiên hạ mà ngang như thế. Cũng thể như một ông tỷ phú sở hữu hàng trăm bất đống sản có lần từng nói vui rằng "Ôi dào, tôi mặc cái gì mà thiên hạ chẳng tưởng tôi mặc hàng hiệu".
Có một điều khiến tôi rất nể Phạm Xuân Nguyên là anh có thể tự học được ngoại ngữ. Là người làm việc trong chuyên ngành ngoại ngữ, tôi biết học một ngôn ngữ thứ hai gian lao như thế nào và cần phải có những quy trình gì. Vậy mà Phạm Xuân Nguyên tự học. Nhập ngũ ba năm thì cũng ôm mấy cuốn tự học nhàu nát mà xong được tiếng Nga, tiếng Pháp. "Xong" ở đây là mang nghĩa thành dịch giả chuyên nghiệp. Với bút danh Ngân Xuyên, dịch giả tự học Phạm Xuân Nguyên đã chuyển ngữ được cả những cuốn của Milan Kundera, một trong những tác giả khó dịch nhất, và những tập lý luận phê bình nặng ký. Nhưng có một điều kỳ quặc mà có lần tôi gợi ý nếu anh gửi hồ sơ rất có thể sẽ có tên trong Guinness. Ấy là anh dịch thành thạo được cả Anh, Pháp, Nga, nhưng chẳng nghe nói được câu nào, nửa chữ cũng không. Đi dự hội thảo quốc tế chỉ biết cười hì như người dốt thật. Vậy mà chẳng biết làm cách nào vẫn giao tiếp thân thiết được với Cao Hành Kiện và nhiều bậc danh gia khác. Có bận tôi sang Bắc Kinh, trong quá trình công tác có làm việc với dịch giả Điền Tiểu Hoa. Tôi hỏi chị có biết nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên không. Điền Tiểu Hoa quay sang nhìn tôi ngạc nhiên "Sao lại không biết?" và nói rằng anh Nguyên là một người đáng kính trọng. Lần này tới Hà Nội, nếu ăn tối với chúng tôi, chị nhất định mong muốn được mời Phạm Xuân Nguyên đến tham dự.
Nhiều người biết Phạm Xuân Nguyên, lắm người quý mến anh, âu cũng là nỗi khổ. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến có lần nói trực tiếp với ông bạn thân rằng "Phạm Xuân Nguyên yêu quý cả nhân loại. Kẻ yêu tất cả mọi người là kẻ không yêu ai cả", rồi đay nghiến thêm "Ngày đi làm, tối đi nhậu, đọc vào lúc nào mà lại viết được, nói được lắm thế". Tôi đem điều đó giễu lại Phạm Xuân Nguyên. Lần này thì anh có vẻ tổn thương. Anh bắt đầu cố gắng chứng minh rằng không phải anh "yêu" tất cả, rằng trong phê bình anh là người nghiêm túc, phê phán thẳng thừng, không yêu quý gì hết. Riêng điều này thì tôi công nhận, vì mặc dù là một "chủ nợ" khắc nghiệt, chưa khi nào tôi được "con nợ" ăn năn bằng cách khen ngợi "trả nợ" về tác phẩm của mình. Rõ là đối với Phạm Xuân Nguyên, nợ nào đi nợ đấy.
"Nỗi tổn thương" của nhà phê bình còn thể hiện ở một sự rất kỳ quặc và ngộ nghĩnh. Ấy là cái bận tôi có một cuộc tọa đàm tác phẩm và đề nghị Phạm Xuân Nguyên viết tham luận. Sáng trước ngày tọa đàm, anh gọi điện cho tôi bảo giờ anh đang đi công tác, chiều muộn mới về, sách anh chưa có, tôi cứ đến nhà anh mà gửi lại qua bà trông xe đạp xe máy ở khu tập thể, lúc nào về anh sẽ đọc. Tôi tá hỏa. Sáng mai đã phải có tham luận. Cuốn sách dày như thế, còn phải đọc, còn phải viết, còn phải ngẫm nghĩ. Tất cả những việc ấy làm vào lúc nào. Tôi rầu rầu "Nếu anh có nhận được sách của em thì cũng cố gắng đọc cho hết hai truyện nhé. Có 10 truyện tất cả nhưng đọc hai thôi cũng được". Phạm Xuân Nguyên ngạc nhiên "Sao lại thế? Anh phải đọc hết chứ."
Tôi cười méo mó qua điện thoại.
•-         Là vì em thấy mọi người bảo anh chỉ đọc một trang đầu, một trang giữa, và một trang cuối, thế là viết được thành một bài 10 trang giấy.
Tối hôm ấy, Phạm Xuân Nguyên gọi điện cho tôi, thông báo đã nhận được sách và giờ đang ngồi đọc. Anh nói rằng anh tìm thấy hai lỗi chính tả, lỗi thứ nhất là ở trang 15, dòng thứ 9 từ trên xuống, tôi viết nhầm tên nhà sư trụ trì với tên ngôi chùa, lỗi thứ hai là dòng đầu tiên ở trang 20, tôi gõ nhầm chữ "khai thác" thành "khai khác".
•-         Vâng? - Tôi kiểm tra lại thông tin, xác nhận thế và chờ đợi.
•-         Ừ... thế thôi. - Nói xong nhà phê bình cúp máy.
Tôi ngơ ngác. Tôi tưởng có chuyện gì rất quan trọng trong phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Mãi mới nghĩ ra, Phạm Xuân Nguyên vẫn còn rất ấm ức về chuyện bị vu oan rằng "không đọc gì mà vẫn viết được". Nay anh chứng minh cho tôi thấy rằng anh đọc rất kỹ, kỹ đến mức tìm được cả hai lỗi chính tả nhỏ xíu.
Tuy nhiên, sáng hôm sau, tại buổi tọa đàm, Phạm Xuân Nguyên không cần đến một tờ giấy ghi chép mà vẫn có thể tham luận về tác phẩm, với những chú dẫn, dẫn giải tỉ mỉ ở từng chi tiết, một việc sẽ là bất khả thi với người không đọc. Sau đó tôi mới biết những gì người ta vẫn nói về Phạm Xuân Nguyên chỉ là giai thoại. Tất cả đều biết rằng một ngày của anh chỉ có 24 tiếng, anh luôn trở về nhà khi đã muộn và thường cắt thời gian ngủ ra để làm việc. Phạm Xuân Nguyên làm việc đêm, và làm việc rất nhanh, đọc rất nhanh, việc người khác làm cả tháng thì với anh chỉ bằng một phần nhỏ thời gian như thế. Đấy là cái sự trời cho. Phạm Xuân Nguyên nói rằng anh thích làm việc đêm bởi vì những khi đối mặt với chiếc máy vi tính và công việc nợ nần ngập đầu, anh sẽ tạm quên đi bốn bức tường trống vắng ở bên trong thời khắc mà con người dễ cô quạnh nhất. Ngày cuối năm, người ta bảo "vui như Tết" thì Phạm Xuân Nguyên nói "buồn như Tết". Anh sợ những khoảnh khắc cô độc một mình của giao thừa, khi mà những gia đình đông đủ sẽ đầm ấm bên nhau, còn những người độc thân chỉ chờ từng giờ cho qua đi ba ngày Tết, để rồi sau đấy, ra Giêng, anh lại khoả lấp sống đời bằng những nợ nần của nhân gian.
Di Li

CÁI TÀI GIẮT LƯNG


Tài năng, đó là một cái vốn. Cái vốn trời cho. Chẳng phải tôi nghĩ ra điều này, mà là anh nho sinh Nguyễn Công Trứ cách nay gần hai trăm năm. Chàng Trứ rất tự tin: "Trời đất cho ta một cái tài / Dắt lưng dành để tháng ngày chơi". Thế nghĩa là ta có một cái vốn, vốn này không phải tiền bạc. Tiền bạc thì con người cố sẽ kiếm được, nhiều nữa là khác. Vốn này là cái tài, mà tài thì của trời cho, nên chi đừng cạnh tranh, so bì hơn thiệt. 
Bất tài là do trời không cho. Ta được trời cho tài tức thị là trời cho ta một cái vốn, nó vô hình, không cân đong đo đếm cụ thể được, không sờ mó trông thấy nhãn tiền được, nhưng mà nó có thực. Ta mang nó trong người như dắt đồng vốn ở lưng quần túi áo, khi nào cần thi thố với đời thì ta lấy ra dùngAnh nho sinh Nguyễn Công Trứ tuổi đã luống mới thi đậu cửa Khổng sân Trình, rồi ra làm quan, đường hoạn lộ cũng mấy phen thăng trầm, trầy trật, khi lên thượng thư khi xuống lính trơn, nhưng ông vẫn "được mất dương dương người tái thượng / khen chê phơi phới ngọn đông phong", ấy là vì ông có tài và thị tài. Vua chúa biết đến tài ta mà dùng ta thì lợi cho nước cho vua, bằng không biết không dùng thì chỉ thiệt vua thiệt nước. Nói như Lý Bạch nghìn năm trước, "thiên sinh hữu tài tất hữu dụng" (trời sinh ta có tài thì ắt phải cho có lúc dùng). Nguyễn Công Trứ sống thời phong kiến, luân lý Khổng Mạnh còn đè nặng  và chi phối mạnh mọi ứng xử của con người trong cuộc sông, trật tự xã hội vua quan nhiều cách bức nặng nề, nhưng ở thời ông cái tài của cá nhân đã  bước đầu được bộc lộ, được bày tỏ và được thi thố. Nào, cùng đọc lại cả bài thơ rất dõng dạc, hiên ngang của Uy Viễn tướng công khoe cái tài, tự hào về cái tài trời đã cho mình.

Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phiếm trúc tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được
Ta mặc ta mà ai mặc ai

Ghê chưa, hai câu cuối bài thơ, rõ là một người lớn tài nên lớn tiếng. Hãy chú ý câu thơ thứ hai "giắt lưng dành để tháng ngày chơi". Làm việc đã phải cần tài năng, nhưng chơi cho ra chơi, chơi cho có lịch có lề, thì cũng phải có tài mới chơi được. Tài năng cho phép ta làm được những việc lớn và do đó cũng cho phép ta biết sống một cuộc sống vui chơi có văn hóa, có hiệu quả, có bản lĩnh. Ai đã từng đọc về cuộc đời và sự nghiệp cụ Thượng Trứ hẳn đều thấy cụ nói được và làm được, cụ đã sống được một cuộc sống gần theo ý mình, mặc cho vòng kiềm tỏa nghiệt ngã của một xã hội không dung túng cá tính, cá nhân, cho dù đã có phần phải nới lỏng do những biến thiên của lịch sử.
          Nói ra chuyện Nguyễn Công Trứ của hai thế kỷ trước cũng là để nói chuyện hôm nay. Tài năng là của hiếm, mà đã hiếm thì khó thấy, khi thấy rồi mà không biết nâng niu, giữ gìn, phát huy thì nó cũng mất. Bởi vì cái tài, người tài thường là ở ngoài khuôn khổ, ít nằm vừa trong những chuẩn mực thông thường, ít chiều lòng những lẽ phải quen thuộc, do đó thường gây khó chịu cho những ai tiếp xúc với nó, đo lường nó theo những định mức bình thường. Cùng thời với Nguyễn Công Trứ có Cao Bá Quát. Ông Quát có tài, điều này ai cũng biết, cũng thừa nhận. Tương truyền ông nói thiên hạ có ba bồ chữ thì hai anh em nhà ông đã chiếm hai bồ. Tương truyền vua Tự Đức đã khen ông hết mức: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán / Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Tương truyền ông bịt mũi chê thơ của nhóm thi xã do ông hoàng Miên Thẩm Tùng Thiện Vương đứng đầu "Ngán cho cái mũi vô duyên / Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An". Cái tài vượt trội về văn thơ cộng với tính cách tự tin, ngạo đời của Cao Bá Quát đã thách thức những lề lối, chuẩn mực của một nhà nước chỉ trọng phép tắc trường quy và thích chạy theo hư danh. Ông không được nhìn nhận đúng năng lực của mình. Ông bị ràng buộc, kìm hãm ở những công việc không xứng với tài mình, không cần đến tài mình. Và Cao Bá Quát đã bị lâm tình thế bi kịch của một người trí thức, một người tài bị bật ra khỏi khuôn khổ của cái xã hội không dung chứa nổi mình. Như đôi câu đối ông vịnh Thánh Gióng: "Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn / Đằng vân do hận cửu thiên đê" ("Đánh giặc còn cho tuổi lên ba là muộn / Bay lên mây vẫn hận chín tầng trời là thấp").
          Thời nào cũng vậy, người tài chỉ cần được biết đến, được trọng dụng, để có thể đem cái tài mình có - cái vốn trời cho ra thi thố với đời, làm lợi cho mọi người, làm giàu đẹp thêm cuộc sống. Tài năng thuộc trời, nhưng môi trường cho tài năng phát triển lại là thuộc người. Người có thể làm mai một cái tài, lại cũng có thể làm cái tài được nẩy nở, sinh sôi. Chuyện đối đãi vật chất với tài năng chưa phải là cái chính, mà quan trọng nhất là sự đối xử tinh thần với những người có tài, mang tài. Trong lịch sử không hiếm những ông vua ban chiếu cầu hiền cầu tài những mong kiếm được người giỏi giúp đỡ giang sơn xã tắc. Nhưng giữa chiếu ban ra và việc thi hành chiếu nhiều khi lại trật khớp, lại tréo ngoe, khiến lòng có thành mà tâm không động, ý có thực mà việc không thành. Mới hay, tìm được tài đã khó, dùng được tài và làm cho tài được dùng lại càng khó hơn. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải có khả năng nhìn người, có tầm nhìn xa trông rộng, và phải biết tạo ra một hệ thống vận hành để người tài không bị lệ thuộc quá nhiều vào những lề luật thói quen vốn là cái khung giữ cho một trật tự ổn định hơn là vận động đi tới.
          Năm nay là Tân Mão, năm con Mèo. Nguyễn Công Trứ đã dốc hết tài năng của mình phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn ở thời ông. Ông rất tự hào, phấn chấn với cái tài của mình và với những việc ông đã làm được nhờ cái tài đó. Nhưng cuộc đời điên đảo, thế sự đảo điên, khiến ông có lúc cũng cay đắng ngậm ngùi cho thân phận mình. Ông tự ví mình như ngựa, đối lập với những kẻ như mèo: Con mèo nằm bếp co ro / Ít ăn thì lại ít lo ít làm / Con ngựa đi Bắc về Nam / Hay ăn thì lại hay làm hay lo. Rốt cục, ông ước mình thành "cây thông đứng giữa trời mà reo". Thông có cốt cách, bản lĩnh của thông. Nguyễn Công Trứ mang cái tài giắt lưng muốn làm thông là ý trách đời "kiếp sau xin chớ làm người".
          Ngẫm ra, phải là người tài mới có nỗi ngậm ngùi ấy.

Bài văn "gây kinh hoàng” trên Internet

“Xong xuôi thì thay vì ở lại để nhận huân chương Anh hùng, ông lại vội vã bay ngay lên trời, để lại một loạt fan và người hâm mộ ngơ ngác.”
Vô Danh
-
“Xong xuôi thì thay vì ở lại để nhận huân chương Anh hùng, ông lại vội vã bay ngay lên trời, để lại một loạt fan và người hâm mộ ngơ ngác.”
Bài văn của một nữ học sinh trung học phổ thông với đề bài phân tích truyện Thánh Gióng vừa được phát tán trên mạng, được xem như “bài văn lạ” mới, gây xôn xao cộng đồng. Nguyên văn bài viết như sau (xin đăng nguyên văn, kể cả một số từ tạm gọi là “lỗi từ vựng” của thế hệ 9X):
“Truyền thuyết kể lại thật ấn tượng khi Thánh Gióng ba tuổi chưa biết nói cười nhưng khi giặc Ân đến thì thoắt cái vươn vai để trở thành người lớn trong phút chốc, ngay sau đó thì đã dùng gậy sắt, cưỡi ngựa sắt uýnh tan giặc. Wow, thậm chí ông còn dùng cả bụi tre làm vũ khí! Xong xuôi thì thay vì ở lại để nhận huân chương Anh hùng, ông lại vội vã bay ngay lên trời, để lại một loạt fan và người hâm mộ ngơ ngác. Chắc là ông tuy thành người lớn nhưng tuổi vẫn trẻ con nên dễ ngượng trước đám đông, hoặc có thể ông ấy khiêm tốn và không mắc bệnh thành tích như người lớn bây giờ! Em hâm mộ ông, à… anh ấy lắm (mà sao trẻ thế họ lại cứ bắt gọi là ông nhỉ?)! Nếu anh ấy mà không bay mất chắc ối người hâm mộ sẽ chết mê chết mệt. Ôi, anh Gióng thật manly, thật cool – thần tượng của em!
Nhưng em không chỉ hâm mộ mà còn thương anh ấy lắm, mới ba tuổi ranh, chưa biết gì mà đã buộc phải thành người lớn, phải làm chuyện người lớn trong khi chưa kịp hưởng tuổi thơ, tuổi thần tiên, tuổi mộng mơ, tuổi ômai như tụi em…Thật buồn, thật ghét chiến tranh đã cướp đi mất tuổi thơ của anh ấy!
Em thì ngược lại, em có tuổi thơ và thời con trẻ đầy đủ đến phát chán.Thực sự thì em chỉ mong cái tuổi thơ này kết thúc nhanh nhanh và thành người lớn cùng thần tượng của em sớm nhất có thể vì quá tuổi thơ của chúng em quá nhiều lý do để bực bội.
Này nhé: Tuổi thơ lúc nào cũng phải đi học, điểm kém thì bị chửi mắng, thậm chí dính chưởng của phụ huynh, muốn học giỏi thì lại phải quay cóp khi đi thi, em thì lại vụng nên quay toàn bị lộ. Lớp em tụi nó quay siêu lắm, có đứa còn được nhà trang bị điện thoại xịn để nhắn đầu bài, đứa thì móc với giám thị quăng phao cho. Em không biết dùng phao, chết đuối phải roài, hic hic…
Tuổi thơ lúc nào cũng bắt đi sở thú. Đi riết chán ốm vì chẳng có gì để xem. Có mấy con thú ốm nhom cứ đứng vậy hoài. Mà nghe nói một con voi mới tự nhiên lăn đùng ra chết, người ta bảo nó bị bệnh hiểm nghèo, em nghĩ là nó đói thôi. Ba em dạo này làm ăn chứng khoán hay đất đai gì đó mà về quặu nhà hoài, kêu làm ăn thế này thì có mà chết đói cả lũ! Đấy, người còn chết đói nữa là voi… Nên em chỉ muốn nhanh làm người lớn.
Tuổi thơ chán chết vì muốn đi chơi chẳng biết đi đâu và đi bằng gì. Xe công cộng thì vừa bẩn vừa hôi, lại chen chúc và luôn chậm giờ, chẳng nhẽ lúc nào cũng bắt gia đình cho quá giang. Em thích đi chơi ngoài thiên nhiên lắm mà không có chỗ nào đi, lại dơ và nguy hiểm nên mẹ không cho. Mà sao cứ đi xa là người lớn lại sợ trẻ con làm chuyện bậy bạ nhỉ? Sao họ cứ suy bụng ta ra bụng người thế? Đi gần thì có mỗi chỗ duy nhất là siêu thị. Dạo này kinh tế khó khăn nên chẳng ai mua gì, cứ đi vào chơi cho mát. Chỗ khu game thì lúc nào cũng phải xếp hàng, tiếng động ẩm ĩ nhức hết cả đầu, haizzz… Nên em chỉ muốn nhanh làm người lớn.
Tuổi thơ thật chán vì không có gì để xem. Ca nhạc thì nhảm, lại chẳng có bài vui cho lứa tuổi tụi em. Cứ suốt ngày yêu nhau, bỏ nhau nhảm pà cố! Mà trong mấy cuộc thi Talent trên Ti vi thì tụi trẻ con cũng toàn bắt chước người lớn mới được giải cao đấy thôi, ai mà coi trọng con nít! Phim Việt thì vừa chán vừa toàn chuyện người lớn, mấy cái phim Mỹ hành động thì hay, vậy mà cái hay nhất chuẩn bị chiếu thì lại bị cấm mất vì nghe nói quá bạo lực. Mấy đứa bạn nhà giàu nó còn được bay qua Thái, qua Sin xem chứ em thì potay. Mà lạ thật, trẻ con bên ấy giàu hơn nhưng lại thích bạo lực hơn ở nhà mình nhỉ? Ôi, ước gì em được như Phù Đổng, ước gì em nhanh làm người lớn.
Tuổi thơ thì lúc nào cũng bắt đọc sách. Em cũng thích đọc lắm, nhất là mấy cuốn Manga vẽ tranh đẹp cực! Đọc lời và chữ nhiều đang chán, đọc truyện tranh đang thích thì mẹ lại cấm vì bảo trong đó toàn cảnh phản cảm của con nít làm chuyện người lớn…huhu. Nếu mà thế gọi là làm chuyện người lớn thì em cũng thích làm người lớn. Thích thế nhưng mà rất khó, mấy đứa con trai cùng lớp thỉnh thoảng cứ hay rủ đi chơi xa, vào nhà nghỉ làm chuyện người lớn. Thích đấy nhưng mà quá nguy hiểm, nhỏ L. lớp kế bên đi chơi riết rồi tự nhiên có em bé đó, kỳ lắm. Nhưng ở nhà cũng ghê thấy mồ à, mấy cha hàng xóm mắc dịch và biến thái cứ hay gạ qua nhà làm chuyện người lớn rồi cho tiền, cho kẹo… Sao làm trẻ con khổ thế!? Nên em chỉ muốn nhanh làm người lớn.
Mà làm người lớn cũng dễ ợt chứ có gì đâu. Em nghe nói nhỏ kia chưa đến 18 đã khai man để có bạn trai sớm. Mà vừa mấy bữa trước thấy nó còn ốm nhom trên ti vi, nghe dì Năm nói nó giải phẫu thẩm mĩ vòng 1 siêu khủng, nâng mũi dọc dừa, mất mấy ngàn đô lận, thế rồi thành hotgirl, được người ta rủ đi chơi mà trả tới hai chục ngàn đô lận. Cho nên chắc em sẽ phấn đấu thành hotgirl trước, rồi sau đó sẽ đăng ký vô mấy cuộc thi Miss sìtyn để kiếm vận may. Làm người lớn vừa có giá, vừa tự do chẳng ai quản lý. Mẹ cấm đoán em chắc chỉ vì thiếu tiền, chứ em mà kiếm được mấy cha đại gia thì sẽ bao cả nhà ăn chơi nhòe luôn.
Đấy, sao cứ phải thời chiến mới trở thành người lớn lẹ được? Mà nói rồi mới nhớ và tiếc thần tượng của em. Giá anh Gióng mà không bay về trời thì ở lại thành đại gia là chắc. Đẹp trai, tiền thưởng nhiều như thế thì thiếu gì hotgirl xin chết?
Vậy xét cho cùng thì đâu ai cần tuổi thơ nhỉ? Em chỉ muốn làm một việc gì có ý nghĩa, em muốn học tập Thánh Gióng nhanh để trở thành người lớn, em chỉ muốn có nhiều tiền, nhưng làm thế nào nhỉ? Haizzzz…”.
Nhận xét của giáo viên: “Bài không những lạc đề mà tư tưởng có vấn đề! Đề nghị gia đình chú ý giáo dục! 0 điểm”.
Theo: TT&VH

Tuesday, 10 July 2012

Rồng Trung Hoa lột xác hóa con bò


Trần Mạnh Hảo

Rồng Trung Hoa mấy nghìn năm vờn lân giả
Mua vui theo nhịp trống xin tiền
Rồng xưa vừa lột xác
Thành siêu bò điên
Lè lưỡi liếm trái đất
Xù miệng hổ tam bành
*
Biển Đông Việt Nam hòa bình thảo nguyên xanh
Thèm cỏ biển bò chiến tranh liếm xuống
Xóa biên cương theo chủ thuyết độc hành
Mấy nghìn năm cưỡi bò xâm lược
Mười sáu chữ vàng ký với giặc Nguyên Thanh
*
Siêu bò Trung Hoa đói sữa
Đói dầu
Đói lãnh thổ
Đói chư hầu
*
Hỡi con bò xâm lăng phương Bắc
Bán nước xưa nay thành một cái nghề
Con cháu sẽ ghi thêm nhiều Trần Ích Tắc
Ai kẻ mục đồng phương Nam chăn bò thuê ?
Sao người yêu nước biểu tình chống giặc Tầu bị bắt ?

Đại Quốc Quốc 8-7-2012

"Thơ của một người yêu nước mình", góp lời cùng các nhà thơ Việt Nam

Đỗ Trọng Khơi

BUỒN THIÊNG
Tôi quỳ trước Nỗi Buồn như quỳ trước Mẹ
Mẹ thiêng liêng và Nỗi Buồn cũng thế
trước Mẹ - con được còn thơ bé!
trước Nỗi Buồn – con sẽ lớn khôn lên!
*
Sống nghĩa là mang Nỗi Buồn thiêng
gì cao quý hơn. Gì lớn lao hơn vậy?
Tôi - người lớn tuổi cô đơn. Tôi - trẻ thơ khờ dại
tôi sợ Nỗi Buồn rời bỏ tôi!
*
Niềm vui dù không đến trong đời
không niềm vui con vẫn là con mẹ
không Nỗi Buồn trái tim con sẽ
tro lạnh dưới mặt trời.
*
Tầm vóc Nỗi Buồn mang tầm vóc Con Người
cái tầm vóc - cội nguồn nhân tính
con người mang sứ mệnh thực hiện niềm vui sướng
và Nỗi Buồn - vị bảo mẫu niềm vui.
*
Ẩn sâu nơi hồn cốt mỗi con người
trong tiếng thở than, tiếng thét vang căm giận
thanh gươm tuốt trên tay người lính trận
có Nỗi Buồn gươm sẽ hoá gươm thiêng!






 
 
CÂU TRONG CÂU ĐỤC
Ai là kẻ xưa nay từng bán nước?
- là bọn tham quan, lũ gian thương!
*
Này Đông, Tây, Nam, Bắc – ai thấy nhỉ,
bán nước non kẻ áo vải dân thường?
*
Ai là kẻ xưa nay từng bán nước?
sách sử ghi : kẻ làm vua nhu nhược!
*
Hỏi trong ngần thấu suốt những giấc mơ,
- có lẽ nào, bán nước các trẻ thơ!?

ĐẤT VÀ NƯỚC
Dân bảo, dân là đất
ruộng hay vườn thì vẫn là đất
mùa màng đi qua đất tốt tươi
*
Nguyễn Trãi bảo, dân là nước
nước nâng thuyền
nước lật thuyền
*
Đất và nước nên danh từ Đất Nước!
*
Dân là đất, con dân là gì?
dân là nước, con dân là gì?
đất lở, nước ghềnh đâu đó cuối trời kia.

TỔ QUỐC
Tổ quốc nơi đâu cũng có mồ lính trận
Đất đai thành xương máu hoá liền thân
Chút bụi vương, cánh hoa tàn rụng xuống
Cũng chạm tới thương sâu một cõi tinh thần.
 
 THƯA CHA 
(Cha tôi, liệt sỹ Đỗ Xuân Khê)

Bây giờ mùa thu cây thay màu lá
ngoài biên nghe thấp thoáng bóng thù
xòe tay che lá, che biên ải
con đi tìm thăm thẳm mộ cha.
*
Tuổi thì già, thịt xương thì trẻ
cha ở đâu nơi đó đất quê nhà
ngoài biên lá lại mùa về cội
tóc con giờ thấm bạc, thưa cha.
*
Đường biên ải chưa ngày hết hẹp
bóng quân thù trắng như sương sa
bây giờ mùa thu cây thay màu lá
cha ở đâu nơi đó nước non nhà.

ĐTK
Thứ hai ngày  9/7/2012  

Thư của một người già gửi nhiều người già hộ những người trẻ

Một người trẻ (Bùi Hoàng Tám chấp bút)

Bức thư này không phải những người trẻ không viết được. Thậm chí là “nạn nhân”, họ viết còn hay hơn cái “lão già” Bùi Hoàng Tám này nhiều. Họ không dám viết bởi sợ bị qui chụp là láo, là vô lễ với tiền nhân… Còn “lão Tám” này đã thuộc thế hệ già, nói người cũng chính là nói mình nên liều mình chấp bút thay họ vậy.
Thưa các vị kính mến!
Chúng tôi đã nghe nhiều, rất nhiều những mỹ từ đẹp đẽ nhất, trách nhiệm nhất dành cho thế hệ trẻ chúng tôi. Nào là thế hệ trẻ là tương lai của đất nước. Nào là bồi dưỡng thế hệ trẻ là nhiệm vụ hàng đầu. Nào là và nào là… Những từ ngữ đẹp đẽ đến mê hoặc lòng người xuất hiện trên hầu hết các báo cáo, các bản tổng kết, kể cả cương lĩnh của các tổ chức xã hội. Nghe nhiều, đọc nhiều quá hóa… quen. Mà sự đời, quen quá hóa nhàm, không muốn nghe nữa.
Điều mà thế hệ trẻ chúng tôi cần thấy bây giờ là sự thật lòng qua hành động của các vị.

Thưa các vị!
Xin hỏi các vị có làm đúng như những điều các vị nói không? Hãy cho được nói thật, chúng tôi nghi ngờ điều đó. Bởi nếu làm đúng như những lời đã nói, chúng ta không đến mức thiếu trầm trọng cán bộ trẻ như hiện nay. Hiện tại, Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ dân số trẻ hàng đầu thế giới nhưng nhìn vào bộ máy lãnh đạo các cấp, ta thấy rõ sự già nua đến mức nào?
Ở hàm Bộ trưởng, người trẻ nhất là Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cũng đã gần 50 tuôi. Số Bộ trưởng dưới 55 tuổi đếm trên đầu ngón tay. Chủ tịch UBND các tỉnh cũng tương tự. Thậm chí, trưởng phó phòng cấp sở ngoài 40 tuổi vẫn coi là… trẻ.  Ngay tại Hà Nội, cơ cấu bầu vào HĐND không đủ số lượng đại biểu trẻ là một ví dụ điển hình. Một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, thủ đô của một nước mà thiếu cán bộ trẻ thì thật đáng báo động.
Trong lịch sử, ngay từ ngày đầu dành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm hàng loạt Bộ trưởng trẻ ở độ tuổi ba mươi mà tên tuổi của họ rạng danh đến ngày nay như các vị Trường Chính, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…
Thưa các vị!
Nếu quả thật thiếu cán bộ trẻ, nguyên nhân do đâu nếu không phải do chính các vị bởi trong cả ba khâu: phát hiện - bồi dưỡng - đề bạt, cất nhắc đều nằm trong tay các vị?
Sâu xa ở đây, theo chúng tôi có lẽ các vị chưa dám đặt niềm tin vào thế hệ trẻ. Thậm chí nghi ngờ khả năng của thế hệ trẻ. Xin thưa, đó là sự “lẩm cẩm” đến chết người bởi các vị quá tự tin vào mình đến tự phụ. Sao các vị không tự đặt câu hỏi chắc gì chúng tôi đã kém các vị mà ngược lại, sao không dặt câu hỏi chắc gì các vị đã bằng chúng tôi? Nói thẳng là trong sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật hôm nay, diện mạo thế giới thay đổi từng ngày, thậm chí từng giờ thì việc lỗi thời của một thế hệ như các vị là điều khó tránh khỏi. Và giả sử chúng tôi có không đáng tin thật thì đến bao giờ các vị mới tin và chả lẽ các vị sống mãi, khỏe mãi để ôm đồm? Chả lẽ dân tộc Việt Nam ta lại “vô phúc” đến mức con cháu ngày càng đổ đốn, hèn hạ và ngu dốt?
Thứ nữa, cái cớ mà các vị hay đưa ra mỗi khi đề bạt, cất nhắc là bởi thế hệ trẻ chưa từng trải, ít vốn sống, thiếu kinh nghiệm. Một lý do… hài hước, thưa các vị. Trẻ thì làm sao có “từng trải”, làm sao nhiều “vốn sống” và “kinh nghiệm”?
Về sự “từng trải”, xin thưa hầu hết mọi công việc ở cơ quan, các vị đều ôm đồm bằng hết, các vị có cho tham gia, cho làm đâu mà đòi hỏi chúng tôi “từng trải”? Còn cái gọi là “vốn sống và kinh nghiệm”, xin nói thẳng tư duy bây giờ là tư duy sáng tạo chứ không phải tư duy “kinh nghiệm” kiểu “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa…”.
Khi khoa học càng phát triển thì chủ nghĩa kinh nghiệm càng bị thu hẹp. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận kinh nghiệm nhưng kinh nghiệm chỉ là một yếu tố phụ, rất phụ nhưng tiếc thay, nó lại như tấm bùa “sống lâu lên lão làng” của các vị. Yếu tố quyết định làm nên sự thành công của thế giới hôm nay là tư duy sáng tạo và chỉ có sáng tạo mới thay đổi được thế giới. Mà sáng tạo thì, thưa các vị, nó thuộc về thế hệ chúng tôi, những người trẻ như nó đã từng thuộc về các vị những ngày xa xưa.
Tóm lại, dẫn đến tình trạng hiện nay hoặc các vị đã không biết phát hiện, hoặc không biết bồi dưỡng, hoặc không dám đề bạt và hoặc là có cả ba khâu.
Điều mà chúng tôi, những người trẻ lo ngại nhất, xin lỗi, khi những điều trên chỉ là cái cớ của sự tham quyền cố vị. Cái thói “Đó rách ngáng chỗ”, khư khư ôm cái “xương cục” đã kìm hãm sự phát triển của đất nước và chính là bi kịch lớn nhất của một dân tộc.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị các vị thứ nhất, có hình thức kỉ luật đối với các trường hợp không tìm được người thay thế xứng đáng bởi đào tạo thế hệ trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người lãnh đạo. Ai trước khi về hưu, không tìm được người thay thế thì phải chịu hình thức kỉ luật bởi đào tạo thế hệ trẻ là một trong số những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của người lãnh đạo. Thứ hai, trong khi chúng ta chưa có một cơ chế sàng lọc thì cách ít hại nhất hiện nay là về hưu đúng độ tuổi. Xin hãy xóa bỏ tư duy sân siu tuổi tác để nấn ná, bấu víu. Đến tuổi nghỉ là nghỉ, không có bất cứ lý do gì để tạo tiền lệ.
Xin đừng để chúng tôi nhìn các vị như những “ngọn cờ lá chuối”, những chiếc lá khô héo đến tận gốc nhưng không chịu rụng.
Sự vĩ đại của lá là biết rụng để nhường chỗ cho những chồi non.
Nếu không thật lòng, xin hãy im lặng. Đừng tiếp tục lừa dối chúng tôi bởi nói thẳng ra, chúng tôi lạ gì các vị.
Kính thư!

Một người trẻ
(Bùi Hoàng Tám chấp bút)
 

Baidu can thiệp trái phép vào máy tính ở VN

Những ngày qua, cộng đồng mạng xôn xao về khả năng trang mạng Baidu gây hại đến người dùng máy tính tại Việt Nam.

Website cung cấp phần mềm nghe nhạc TTPlayer
Một nghiên cứu của các thành viên cộng đồng Hacker Vietnam (HVA) và nhóm nghiên cứu bảo mật Công ty CMC InfoSec cho thấy một số dịch vụ và phần mềm mà Baidu đang thử nghiệm tại thị trường VN có những hoạt động can thiệp trái phép vào máy tính người dùng.
Cụ thể, phần mềm nghe nhạc TTPlayer được nhóm nghiên cứu xếp loại adware, tức phần mềm quảng cáo trái phép, tự cài đặt và thay đổi trái phép trang chủ người dùng cho mục đích quảng cáo. Nguy hiểm hơn, trong quá trình cài đặt TTPlayer, chương trình này âm thầm cài đặt kèm theo một ứng dụng thực thi mang tên hao123.1.0.0.1097.exe vào máy người dùng.
Ứng dụng này đóng vai trò là một trojan/downloader, trú ngụ âm thầm trên máy tính nạn nhân và có thể tải thêm bất kỳ thành phần nào khác như các đoạn mã từ Internet hay thậm chí là mã độc khi được chủ nhân chỉ định từ xa. Nghĩa là TTPlayer và hao123 đã mở một “cửa hậu” trên máy tính mà khổ chủ không hề hay biết và khả năng tải những thành phần gây hại về hệ thống bất cứ lúc nào có kết nối Internet.
Tương tự, khi muốn xem phim trực tuyến tại dịch vụ ahphim.com, người xem buộc phải cài đặt phần mềm HiPlayer để có thể xem nhưng cũng không biết rằng hao123 sẽ được “tặng thêm” trong khi cài đặt.
Theo nhận định của một số chuyên gia bảo mật, hành vi “cấy” phần mềm trái phép, chưa được sự đồng ý của người dùng và mở “cửa hậu” trên hệ thống là rất nguy hiểm. Máy tính của nạn nhân dễ dàng bị điều khiển từ xa, đánh cắp dữ liệu hoặc biến thành “máy tính ma” (zombie) chịu sự quản lý để tham gia các cuộc tấn công - từ chối - dịch vụ (DDoS).
Người dùng được khuyến cáo không nên cài đặt các phần mềm chưa rõ nguồn gốc, không sử dụng các dịch vụ trực tuyến yêu cầu cài đặt thêm các thành phần hay phần mềm đáng nghi, đồng thời cài đặt trình anti-virus kèm tường lửa (firewall) trên hệ thống và luôn kích hoạt hoạt động thường trực.
Baidu là người khổng lồ trong lĩnh vực tìm kiếm và giải trí trực tuyến của Trung Quốc. Từ 1g ngày 1-7, dịch vụ trực tuyến thứ ba của Baidu đã hoạt động tại VN với tên gọi Baidu trà đá quán, dù họ vẫn chưa được cấp phép theo quy định VN. Khoảng sáu tháng trước, Baidu đã ra mắt danh bạ website ngôi nhà mới tại địa chỉ hao123.com.vn, tiếp theo là trang hỏi đáp tại zhidao.baidu.com.vn. Các trang web này đều là các sản phẩm chính của Baidu ở thị trường Trung Quốc.
THANH TRỰC

Sunday, 8 July 2012

Mặt trời đuôi công



Từ lâu những bức tranh thiếu màu cảm xúc
Nét vẽ khô khốc
Em đi tìm chính mình
Bằng sự phân tâm lười nhác


Giữa vòng hào quang mặt trời đuôi công đừng hỏi em là ai
Ngón tay em bê bết vết hoàng hôn

Khi bão hoà những màu quen thuộc
Em ngán ngẩm nhìn mặt trời chói mắt bồ câu

Tìm mình ở đâu?

NGUYỄN CHÂU ÁNH DIỆU

Saturday, 7 July 2012

Bùi Ngọc Tấn - Người chăn kiến


Phạm Tường Vân 

Tôi muốn gọi ông như vậy, dù đó là tên một nhân vật do chính ông tạo ra trong một truyện ngắn cùng tên.
Truyện kể về một ông giám đốc bị đi tù oan, rồi nhờ dáng vẻ trí thức, ông được một “đại bàng” giàu óc tưởng tượng và chán trò đấm đá tha cho trận đòn “nhập môn” mà đựơc trần truồng đứng làm tượng Nữ Thần Tự Do. Đóng vai này, ông thèm đựơc là một người trong cả chục người vây chung quanh phục dịch “đại bàng”, thèm đựơc như ông già chủ nhiệm hợp tác rụng hết răng móm mém ôm bọc “nội vụ” đi quanh buồng giam hát ru em bài Bé bé bằng bông. Và đặc biệt thèm đựơc chăn những con kiến trong cái vòng tròn bé tí vẽ bằng gạch non trên nền buồng giam, một trò chơi do tay “đại bàng” nghĩ ra. Cho đến ngày ông được minh oan, trở về công việc cũ. Tất cả đều ổn. Nhưng cứ vào giờ ngủ trưa, phòng giám đốc luôn khóa trái: ông nhìn trước nhìn sau, rồi mở ngăn kéo, lôi ra hai con kiến, vẽ một cái vòng tròn nhốt chúng, bẻ bánh bích quy cho chúng ăn, lấy name-card chặn chúng… Rồi như sực nhớ, ông hốt hoảng cởi bỏ áo quần, leo lên bàn, mắt nhìn về phía xa, tay giơ cao kiêu hãnh, trong tư thế của Nữ thần Tự do.
Cái vòng tròn nhỏ xíu ấy không giữ nổi hai con kiến nhưng chính là cái vòng kim cô nhốt trọn thân phận của một con người! Bùi Ngọc Tấn không bao giờ ra khỏi câu chuyện đó, vòng tròn đó, vì nó là thân phận của chính ông. Cả những con chữ của ông cũng thế, như những con cá mới đánh lên từ biển, chúng căng mọng tình yêu và ròng ròng máu đỏ, dù vừa phải đi một chặng xa, từ thập kỷ 60 thế kỷ trước đến trước thềm năm 2000. Cuộc trao đổi này diễn ra từ năm 2001, khi cuốn “Truyện kể năm 2000″ của ông vừa in xong chưa lâu đã buộc phải đi vào “lưu hành bí mật”. Toàn văn bài viết cũng chưa từng công bố.
Bùi Ngọc Tấn (BNT): Cảm ơn chị đã nhớ tới truyện ngắn đó. Tôi viết để dự thi cuộc thi truyện cực ngắn của Tạp chí Thế Giới Mới. Viết chỉ trong một ngày xong. Đinh ninh nó sẽ đựơc giải. Thế nhưng ngay cả in trên tạp chí cũng không. Sau vụ đó, tôi càng hiểu giải thưởng có ý nghĩa gì.
- Phạm Tường Vân (PTV): Nghĩa là từ chỗ tin tưởng vào giải thưởng, ông trở nên hoài nghi và mất hết hy vọng. Thật ra, giải thưởng có đáng cho chúng ta kỳ vọng hay thất vọng tuyệt đối vào nó hay không?
BNT: Giải thưởng của các báo, các nhà xuất bản, của Hội Nhà văn đều nhằm định hướng cho sáng tác. Các định hướng mà chúng ta đều thấy cần phải thay đổi. Thế nhưng giải thưởng nói rằng: Hãy cứ viết như vậy. Và từ đó tôi không quan tâm đến giải thưởng cũng như các sáng tác đựơc giải.
- PTV: Nhưng giải thưởng Hội Nhà văn cũng đã vài lần trao đúng địa chỉ, chẳng lẽ đó là ngoại lệ?
BNT: Những ngoại lệ hiếmhoi, đó là những năm trao giải cho các tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng, mà xuất sắc nhất là Nỗi buồn chiến tranh. Đó là cuốn tiểu thuyết làm vẻ vang cho nền tiểu thuyết Việt Nam. Nhưng thật đáng buồn, sau đó đã có cuộc vận động những người bỏ phiếu cho nó đựơc giải thưởng viết bài phản tỉnh, nghĩa là đã có định hướng lại công cuộc sáng tác. Đáng buồn hơn, đã có nhiều nhà văn trong hội đồng xét thưởng viết bài tự phê phán. Nhưng một tác phẩm văn chương đích thực không bao giờ vì thế mà chết hay mất đi vài nấc thang giá trị. Văn chương là thế. Dìm không xuống, kéo không lên. Đó cũng là một trong nhiều lý do tôi thích công việc này. Nó tồn tại bằng giá trị tự thân. Sống bằng cái gì mình có.
- PTV: Một nhà phê bình văn học nhận xét: “Tiểu thuyết Việt Nam, nỗi buồn triền miên, có thể kéo dài từ năm nay sang năm khác, hết hội thảo này đến hội thảo khác”. Là tác giả của một cuốn tiểu thuyết gây chấn động năm 2000, ông nhìn nhận thế nào về thực trạng và tương lai của tiểu thuyết Việt Nam?
BNT: Tiểu thuyết nước ta quá ít thành tựu. Đã có quyển được tung hô, đựơc phát động đọc, được giảng dạy, đựơc bao cấp để rồi in đi in lại, nghĩa là quyết tâm hà hơi tiếp sức nhưng nó cứ chết thôi. Như tôi vừa nói, năm nào cũng có giải thưởng văn chương, giải thưởng tiểu thuyết nhưng chẳng lưu lại điều gì trong lòng bạn đọc. Thời chiến tranh, làm văn học minh họa, văn học “phải đạo”, điều đó hiểu dược. Bây giờ không thể thế. Bạn đọc đã bội thực, chúng ta đã chán chúng ta. Cuối năm tổng kết thành tựu này thành tựu khác. Rồi ít lâu sau lại nói chúng ta còn hời hợt, chưa phản ánh đựơc cuộc sống, thời đại này là thời đại của tiểu thuyết mà không có tiểu thuyết, kêu gọi hãy viết các tác phẩm lớn ngang tầm thời đại. Và năm sau tổng kết lại có nhiều thành tựu. Để sau đó lại nói là không đọc tiểu thuyết mười năm sau cũng chẳng có vấn đề gì. Rồi khẳng định tiểu huyết là xương sống của một nền văn học. Và kêu gọi… Cái vòng luẩn quẩn cứ như vậy tiếp diễn, không biết bao giờ mới thoát đựơc ra.
- PTV: Và các hội thảo vẫn cứ tiếp tục diễn ra như thể người ta thực lòng mong có một nền tiểu thuyết tầm cỡ. Nhưng thật ra…
BNT: Vâng, hội thảo, chi tiền, mới nhà văn, nhà lý luận. Học thuật. Kinh nghiệm. Trong và ngoài nước. Tổng kết và rút ra rất nhiều điều. Cứ như là thực lòng mong có tiểu thuyết hay! Cuối năm 2002, Hội Nhà văn tổ chức hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết có mời tôi. Nhưng tôi không đi. Tôi cảm thấy hết tính chất hình thức của những cuộc hội thảo kiểu này. Tôi sợ mình vốn trung thực, lên đấy muốn đóng góp cho thành công của hội thảo cứ nói toạc ra những điều mình nghĩ thì lại thành scandal, bất tiện. Ví dụ tôi sẽ hỏi: Có thật chúng ta muốn có tiểu thuyết hay, tiểu thuyết lớn hay không? Hay chỉ nói để mà nói? Nó dzậy mà không phải dzậy? Những đề dẫn, những tham luận trong các buổi hội thảo đều rất hay, rất công phu nhưng có một điều ngày thường khi trao đổi cùng nhau ai cũng coi như điều kiện tối thiểu bắt bụộc để có tiểu thuyết hay lại không hề được nhắc đến hay phân tích. Đó là Tự Do! Không có tự do làm sao có tiểu thuỵết hay được. Làm sao hội thảo về tiểu thuyết lại có A.25? Có sự giám sát của công an? Mới chỉ bàn về tiểu thuyết thôi đã không có tự do rồi. Tôi không trách hay ghét gì các anh công an văn hóa. Hãy nhìn các anh công an văn hóa đến dự những buổi hội họp văn chương nghệ thuật, họ mới ngượng nghịu làm sao! Tôi nói đây là nói về cơ chế. Một cơ thế tồn tại quá lâu, quá phi lý nhưng đã trở thành tự nhiên như cuộc sống. Không ai dám đúng ra tháo gỡ. Cần lưu ý rằng nhà văn là những người yêu nứơc. rất yêu nứơc. Hãy tin ở họ. Họ yêu nứơc không kém bất kỳ một người Việt Nam nào.
- PTV: Chừng nào xã hội còn được sắp xếp theo kiểu đó, nền văn học của một quốc gia còn được Hội Nhà văn “điều hành” theo kiểu đó thì sẽ không có tiểu thuyết?
BNT: Có thể nói thế này: Tôi hoài nghi về tương lai của tiểu thuyết Việt Nam.
- PTV: Quan hệ giữa nhà văn và nhà cầm quyền thường ít khi suôn sẻ, ở bất kỳ quốc gia nào. Nhưng xin nói thật, có thể tin rằng có một cái gọi là lòng yêu nứơc của các nhà văn, nhưng ít ai trông cậy vào bản lĩnh và ý chí của họ, bởi anh ta quá yếu ớt và yếm thế. Và như vậy, việc các nhà chức trách để mắt đến nhà văn và các hội thảo vô thưởng vô phạt của họ là một việc làm vô ích và lãng phí.
BNT: Những nhà văn đúng nghĩa thường lặng lẽ ngồi bên bàn viết, cặm cụi tháng năm hao tâm tổn trí trên từng dòng chữ kể lại những gì đã làm họ xúc động và mong đựơc chia sẻ. Họ chẳng thể áp đặt đựơc gì đối với ai. Làm sao một người viết tiểu thuyết chân chính dù tài năng như L. Tolstoi. G. Marquez hay E. Hemingway bằng những trang viết của mình lại có thể lật đổ đựơc chế độ
Tôi muốn dẫn ra đây ý kiến của M. Kundera, nhà tiểu thuyết người Pháp gốc Tiệp: “Tôi đã nhìn thấy và sống qua cái chết của tiểu thuyết, cái chết bất đắc kỳ tử của nó (bằng những cấm đoán, kiểm duyệt, bằng áp lực của ý thức hệ), trong cái thế giới mà tôi đã trải qua phần lớn cuộc đời tôi và và ngày nay người ta gọi là thế giới toàn trị(…) Tiểu thuyết không thể tương hợp được với thế giới toàn trị. Sự xung khắc này còn sâu sắc hơn cả xung khắc giữa một người ly khai và một kẻ thuộc bộ máy cầm quyền, giữa một con người đấu tranh cho nhân quyền và một kẻ chuyên tra tấn người, bởi vì nó không chỉ có tính cách chính trị hay đạo đức, mà có tính cách bản thể. Điều đó có nghĩa là cái thế giới cơ sở trên chân lý duy nhất và thế giới nứơc đôi và tương đối của tiểu thuyết đựơc nhào nặn theo những cách thức hoàn toàn khác nhau…”
- PTV: Điều gì đáng báo động nhất trong tiểu thuyết hiện nay?
BNT: Thiếu vắng tính chân thực. Chị đã bao giờ đóng cửa một mình trong buồng, đọc một cuốn tiểu thuyết nào đó mà vẫn cứ xấu hổ đỏ rừ mặt chưa?
- PTV: Chưa. Vì tôi sẽ sớm bỏ sách xuống. Có lẽ bởi tôi không có cái mặc cảm của người trong cuộc chăng?
BNT: Tôi đã bị như vậy. Xấu hổ về sự bịa đặt khiên cưỡng, uốn éo né tránh mà làm ra vẻ ta đây rất dũng cảm, rất chân thực. Hàng giả trăm phần trăm mà dám tự tin nói là hàng thật, hàng xịn. Làm sao lừa đựơc độc giả. Xấu hổ về cái ông tác giả vẫn cứ tưởng mình lừa đựơc thiên hạ. Nhưng có lẽ không phải lỗi ở họ, hoặc lỗi ở họ rất ít.
Cũng cần nói thêm là chân thực không phải là chụp ảnh cuộc sống. Mà là tìm tới cội nguồn, cái gốc gác, cái động mạnh chủ của cuộc sống.
- PTV: Cuốn sách của ông được được đánh giá cao vì tính chân thực. Tại sao ông lại chọn lối viết này trong khi nó vừa nguy hiểm vừa kém mô-đéc?
BNT: Tôi cố gắng giảm bớt t í ti sự thiếu hụt đó. Ngay từ những năm 60, tôi và bạn bè đã nói với nhau những khao khát được viết thật. Một mơ ước chính đáng và nhỏ nhoi, nhưng rất hão huyền. Càng vô vọng khi tôi ở tù ra. Thế nhưng chị thấy đấy. Cuộc sống dù sao vẫn cứ đi lên, dù rất chậm. Dù thế nào trái đất vẫn cứ quay. Tôi không ngơi tin ở cuộc sống.
- PTV: Tại sao “Thân phận tình yêu” lại nhìn chiến tranh khác với tất cả các tiểu thuyết Việt Nam trước đó về chiến tranh? Bậc thầy của nghệ thuật “tô hồng”, Roman Carmen, tác giả của những thước phim tài liệu hùng tráng nhất trong lịch sử cách mạng Xô Viết, cũng có một câu nói lúc cuối đời: “Không có sự thật, chỉ có sự thật mà nhà quay phim muốn thấy”. Văn học cũng không nằm ngoài “định luật” này?
BNT: Đúng vậy. Khủng khiếp nhất là suốt bao nhiêu năm tất cả “các nhà quay phim” đều chỉ đựơc phép có một kiểu thấy duy nhất thay vì để nhiều cách nhìn cùng tồn tại. Nhà văn Nguyên Ngọc có kể cho tôi nghe câu chuyện sau: Một vị chỉ huy mặt trận có anh lính Bảo Ninh tham gia chiến đấu sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, hỏi nhà văn Bảo Ninh: “Dạo ấy mình cũng ở đấy, tình hình có như cậu viết đâu? ”. Và nhà văn Bảo Ninh trả lời: “Đấy là cuộc chiến tranh của anh. Còn tôi viết về cuộc chiến tranh của tôi”. Bảo Ninh đã nhìn chiến tranh bằng cặp mắt của anh. Bảo Ninh dám là mình, điều kiện trứơc tiên để có sáng tác hay.
- PTV: Ông có lần nhắc đến cụm từ “chất độc màu da cam” hay là từ “quán tính”? Nó chỉ trạng thái này chăng? Ông đã trở lại với sáng tác như thế nào?

Bùi Ngọc Tấn
BNT: Bây giờ tôi còn một chồng sổ tay ghi chép trong thời gian đi làm đánh cá, toàn bộ tư liệu đó phải vứt đi hết. Ngồi tù rồi mà vẫn “bắt” những chi tiết đó, vẫn nhìn cuộc sống bằng cái nhìn hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nó ngấm vào máu mình rồi, thế mới lạ.
Những con ngưòi thời tôi sống thật sự đáng yêu nhưng không đáng yêu theo kiểu tôi nghĩ, họ đáng yêu theo kiểu khác. Tôi đã bỏ qua hết những mảng khác, những mảng tối của con người. Khi sực nhận ra điều ấy, tôi đau lắm.
Quả thật tôi không ngờ mình sẽ viết trở lại. Viết với tư cách công dân, tư cách nhà văn hẳnhoi chứ không phải viết lăng nhăng hoặc viết chui. Năm 1986, đọc được những sáng tác như mình muốn viết, tôi hiểu: thời thế văn chương đã khác. Đầu 1990, khi làn gió dân chủ, đổi mới thổi suốt từ bức tường Berlin sụp đổ đến nứơc chúng ta, tôi đã viết lại. Đầu tiên là Nguyên Hồng- Thời đã mất. Sau đó là Người ở cực bên kia, Cún. Sau Cún là Mộng du (tên đầu tiên của tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000).
Tại sao tôi chọn cách viết này ư? Tôi nghĩ mình thuộc thế hệ già rồi. Đổi mới tư duy tiểu thuyết đối với tôi hơi vất vả. Tôi cũng nghĩ rằng điều cần thiết nhất đối với mình lúc này là cuốn sách phải đầy sức thuyết phục, không ai nói được là nó bịa đặt. Và một nhu cầu nhỏ bé nhưng chính đáng: viết thế nào để tự bảo vệ mình, tránh những đòn hội chợ vẫn hay xảy ra với những sáng tác có vấn đề, không loại trừ cả vòng lao lý…
- PTV: Ông có nghĩ là ở vào thời điểm này, chúng ta mới đặt ra một khái niệm vỡ lòng là viết thực, không dối trá, là hơi tụt hậu không?
BNT: Thế hệ chúng tôi đã sống qua những năm tháng thật sung sứơng và cũng thật đau khổ, thật hạnh phúc nhưng cũng thật bất hạnh như tôi đã tổng kết trong Một thời để mất, tập sách đầu tiên của tôi in sau 27 năm im lặng. Không thể để những năm tháng ấy rơi vào quên lãng. Thế hệ chúng tôi sắp đi qua trái đất này, tôi muốn những thế hệ sau biết đã có một lớp người sống như thế đấy. Tôi muốn nhà văn là thư ký, là người chép sử của thời đại.Phẩm chất đầu tiên của những người này phải có là sự trung thực. Cho dù có bị chê là cổ.
- PTV: Chương, đoạn nào trong cuốn tiểu thuyết làm ông ưng ý nhất?
BNT: Thật khó cho tôi. Có lẽ đó là chương viết về già Đô, chương ở sân kho hợp tác. Và nhất là chương tiếng chim “còn khổ”. Những tiếng chim ấy đã đóng dấu tuyệt vọng nung đỏ vào não tôi. Mảnh sân kho hợp tác là tuổi trẻ của tôi. Và chương viết về già Đô là kết quả sức tưởng tượng của tôi.
- PTV: Nghĩa là Già Đô là nhân vật duy nhất đựơc hư cấu?
BNT: Già là kết quả tổng hợp của nhiều già khác kể cả tình yêu của tôi đối với một nhà thơ làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam đã chết: Tuân Nguyễn.
- PTV: Có người chê cuốn sách hơi dài?
BNT: Có thể. Nhưng Lâu đài của Kafka, Những kẻ tủi nhục của Dostoievski, Con đường xứ Flandes của Claude Simon triền miên hồi tưởng hẳn cũng dài. Tôi tìm sự hấp dẫn ở chi tiết chứ không phải ở cốt truyện ly kì. Đó là một điều khó. Viết gần một nghìn trang không có cốt truyện, không kể lại đựơc là điều không đơn giản. Chị đã đọc Henri Charriere hẳn thấy Papillon có cốt truyện cực kỳ hấp dẫn vì bản thân đời tù của Charrier là như vậy. Còn chuyện tù Việt Nam rất đơn điệu. Anh tù 100 ngày cũng như anh tù 1000 ngày, 10000 ngày. Và điều kinh khủng nhất là không ai thổ lộ tâm sự củng nhau. Không ai tin ai, mỗi ngừơi là một vòng tròn khép kín. Khó viết lắm.
- PTV: Mạch truyện hiện lên qua hồi ức, có khi chồng lên, khi hoán đổi thứ tự. Phương pháp đồng hiện từ thời tiểu thuyết mới có phải là chủ ý của ông?
BNT: Tôi không tin một nhà văn nào lại có thể thành công nếu ngay trong khi viết anh ta tâm niệm định sẵn cho tác phẩm của mình khuôn theo một trường phái nhất định nào. Khi viết, tôi chỉ nghĩ viết sao cho hay, cho chân thực và viết bằng trái tim mình. Với tôi văn chương có hai loại: hay và không hay. Thế thôi, tôi không chạy theo các mốt. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng cách đây nửa thế kỷ rồi. Có còn gì mới nữa đâu. Tôi đồ rằng khi viết Ông già và biển cả, Hemingway không cũng không nghĩ mình mình sẽ viết theo dòng hậu hiện đại hay hiện đại, hiện sinh hay phản cấu trúc. Ông viết vì ông quá hiểu, quá yêu biển Cuba cùng những người đánh cá Cuba và thấy klhông thể không vợi bớt lòng mình, không thể không viết về họ. Tôi đoán vậy bằng kinh nghiệm của tôi và các bạn của tôi.
Khi tôi viết tôi chỉ nghĩ phải viết đúng như mình thấy, đúng như mình nghĩ. Giản dị, chân thực như cuộc sống. Ai dọc cũng hiểu. Quyển sách cũa tôi không phải của riêng một tầng lớp nào. Nó là của mọi người. Tôi không làm khó hiểu những điều dễ hiểu. Tôi không làm rắc rồi những điều đơn giản. Phương pháp đồng hiện chỉ nhằm chuyển tải đựơc một trong những nội dung và thông điệp của tôi: Ai đã bứơc vào nhà tù, vĩnh viễn không thoát khỏi nó. Hãy thận trọng, những ai đựơc quyền xử lý con người!
- PTV: Tôi nhớ truyện ngắn “Người chăn kiến” của ông. Ở đó, sự bám đuổi này đựơc chuyển tải một cách đặc sắc và súc tích hơn nhiều.
BNT: Nói thêm với chị rằng trứơc khi in Chuyện kể năm 2000 (CKN 2000), tôi tung ra một số truyện ngắn về đề tài này để người ta làm quen dần với món ăn mới của tôi. Như các truyện Ngừơi ở cực bên kia, Khói, Người chăn kiến, Một tối vui, Một ngày dài đằng đẵng. Người chăn kiến là một truỵên ngắn thành công nhưng không thể so sánh, Người chăn kiến gần một nghìn từ với CKN 2000 gần 1000 trang.
Người chăn kiến là một đường cày , còn CKN 2000 là cả một cánh đồng.
Người chăn kiến là một hiện tượng, một lát cắt trong khi CKN 2000 là một lịch sử, một quá trình.
Tôi bằng lòng với CKN 2000. Tôi đã chạm tới cái trần của mình. Tôi đã làm tròn bổn phận.
- PTV: Bổn phận với bạn tù, với gia đình, bè bạn, hay trách nhiệm công dân của người cầm bút?
BNT: Tất cả. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh đến trách nhiệm công dân.
- PTV: Nếu làm một cuộc thăm dò trong các phạm nhân về độ chân thực của cuốn sách, tỉ lệ sẽ là bao nhiêu?
BNT: 99%. Tôi tin là như vậy. Có thể còn cao hơn nữa.
- PTV: Khi vào tù và khi cầm bút nghiền ngẫm về nó, ông có nhớ tới những tác phẩm nhà tù kinh điển của văn học cách mạng Việt Nam, mà mỗi chúng tôi đều thuộc lòng từ khi ngồi trên ghế nhà trường?
BNT: Trong CKN 2000, tôi đã để Tuấn nói với người bạn tù: Phương ơi, từ nay, không ai trong số các nhà văn cách mạng có thể độc quyền đề tài này. Chúng ta bình đẳng với tất cả. Từ nay, không ai có thể loè chúng ta được nữa. Nhà tù là một vật trang sức mà không phải nhà chính trị nào cũng muốn mang.

Phạm Tường Vân
BNT: Ngoài sự khác biệt đặc thù của thể loại, mỗi người có một nhiệm vụ. Nhiêm vụ của anh Vũ Thư Hiên là vạch rõ, chỉ ra những hạng người nào đã đẩy cha con anh ấy vào một việc như thế. Còn nhiệm vụ của tôi là chỉ ra toàn bộ cơ chế, trật tự nào đã đẻ ra việc này. Một cuộc đời bình thường, khởi đầu đầy lý tưởng, rồi bị làm cho biến dạng đi.
- PTV: Trong cái trật tự đáng sợ ấy, ông và các bạn ông đứng ở đâu?
BNT: Vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Chính tôi, gia đình và bè bạn đã hăng say góp phần xây dựng và tô điểm thêm cho cái trật tự ấy.
- PTV: Tôi đọc trong những gì ông viết có một thông điệp khác: lời thanh minh cho một thế hệ. Những bào chữa muộn màng và đòi hỏi cảm thông cho sự đóng góp ít ỏi của các ông, lớp nhà văn lứa đầu của chủ nghĩa xã hội với những sản phẩm có “họ hàng” với nhau, từ tư tưởng đến hình thức?
BNT: Đúng vậy. Đáng buồn là các sản phẩm của chúng tôi làm ra ngày ấy đều hao hao giống nhau như chị nói. Chúng tôi còn trẻ nhưng đã là những Con ngựa già của chúa Trịnh
- PTV: Thành quả có thể tổng kết được của các ông đối với nền văn học nước nhà?
BNT: Ít lắm. Không đáng kể.
- PTV: Mẫu số chung nào cho thế hệ của ông? Những Mạc Lân, Nguyễn Xuân Khánh, Dương Tường…?
BNT: Thế hệ có một tuổi trẻ tuyệt vời, giàu có và cuối đời tay trắng! Thế hệ lớn lên gặp cách mạng, theo cách mạng, có kiến htức, có khát vọng, đam mê. Một thế hệ có thể làm mọi việc nhưng bị làm hỏng, và cũng góp phần làm hỏng thêm một thế hệ khác.
- PTV: Trong số đó, ai là người mất ít nhất?
BNT: Ông Dương Tường. Ông ấy mất nhiều, nhưng biết giành lại.
- PTV:5 năm đi tù- 5 năm đi thâm nhập thực tế, đã biến ông, từ một nhà văn loại hai của những công dân hạng nhất (những điển hình tiên tiến XHCN), sang nhà văn loại một của những công dân hạng ba (tù tội, đĩ điếm, ăn mày). Ông thấy cái giá đó đắt hay rẻ?
BNT: Không có gì đáng buồn hơn là làm một nhà văn hạng hai. Tôi tiêu phí đời mình chỉ mong đổi lấy một trang sách chống chọi với thời gian. Nhưng chị thấy đấy, mong manh lắm Nhiều nhà văn bảo tôi lãi quá. Tôi hiểu đấy là những lời động viên khen ngợi tôi đã không gục ngã. Chứ muốn lãi như tôi có khó gì đâu. Đó là một chuyến “đi thực tế” bất đắc dĩ. Tất cả đều nằm ngoài ý muốn của tôi. Đó là số phận. Cuối đời mới ngộ ra đựơc một điều: Hãy chấp nhận tất cả những gì đến với mình. Và hãy làm việc trong bất kỳ hoàn cảnh nào để không mất hết.
- PTV: Khi viết, ông chú tâm đến điều gì?
BNT: Lúc ngồi vào bàn viết là lúc tôi dọn mình đối thoại với vô cùng, không nhằm trả lời cụ thể đối với một cá nhân, một tập thể nào, không giải quyết một nỗi bực dọc riêng tư nào. Điều tôi sợ nhất là viết ra thứ văn chương vớ vẩn làm mất thời gian của bạn đọc. Một điều tôi sợ nhất là viết nhạt. Ông Nguyên Hồng nói một câu chí lý: “Cái tội lớn nhất của cá nhà văn Việt Nam là viết nhạt”. Tôi cố gắng để không mắc tội ấy.
- PTV: Trong cuộc sống, ở tuổi bảy mươi, ông sợ nhất điều gì?
BNT: Sợ nhiều thứ lắm. Nhưng sợ nhất là những người gặp may mắn, đựơc số phận nuông chiều, chưa một lần nếm mùi thất bại. Họ đầy mình chân lý và sẵn sàng ban phát chân lý đó cho bất kỳ ai.
- PTV: Các cấp chính quyền đối với ông thế nào?
BNT: Sau khi in CKN 2000, tôi đựơc mời lên công an nhiều lần. Nhà tôi, điện thoại của tôi bị giám sát chặt chẽ. Nhiều cuộc họp đảng cơ ở , người ta phổ biến rằng tôi là một không kẻ phản động đi tù về viết một tập sách chửi Đảng, chửi lãnh tụ. Ngay tết Quý mùi gần đây thôi, ông bí thư phường tôi họp cán bộ các ngành trong phường tổng kết về tết an toàn, noi trong phường có một điềm nóng là tôi nên phải phân công trực ca ba, 24 trên 24. Qua tết không xảy ra chuyện gì mới thở phào. Cũng phải nói thêm: tất cả những vị đứng ra truyền đạt những nhận xét về tôi đều chưa đọc tập tiểu thuyết của tôi. Một người bạn có chân trong Đảng dự họp nói ông ta có bản photo CKN 2000, ai muốn đọc, ông ta cho mượn, nhưng chờ mãi mà không ai mượn, nghe cấp trên truyền đạt lại là dủ, làm gì phải đọc, phải suy nghĩ, phải động não cho mệt người. Rất may là tôi và vợ tôi đầu đã quen với những cung cách đối xử như vậy.
- PTV: Đọc những trang ông viết về Ngọc, vợ Tuấn, người ta muốn khóc. Hình như những tình yêu đẹp như thế trong cuộc sống đã hoàn toàn biến mất. Ông là nhà văn hiếm hoi (may mắn?) có một tình yêu đẹp với… vợ mình, yêu vợ được rất lâu và chưa hề ngoại tình?
BNT: Có hiếm hoi thật không? Cứ hình dung thế này, một cô gái Hà Nội bé như cái kẹo, xinh xắn, hiền dịu, mộng mơ, có cả một tương lai phơi phới và nhiều người ngấp nghé nữa chứ, chọn tôi, gắn bó chung thủy với tôi rồi mất cả đời. Ngoài tình yêu, tôi còn rất biết ơn vợ. Nhiều người đi tù, vợ lăng nhăng hay lấy chồng khác, thế là tan cửa nát nhà. Thế là con cái thành trẻ bụi đời, lại theo chân bố vào tù. Tất cả những gì tôi và các con tôi có đựơc hôm nay đều gắn liền với sự đóng góp của vợ tôi, một ngừơi sinh ra để sống cho ngừơi khác, vì ngừơi khác. Giờ đây mỗi sáng quét nhà, nhặt những sợi tóc bạc của bà ấy, thấy đau. Sắp hết đời rồi, sắp đến cõi rồi. Có lẽ lại phải viết thôi. Viết về tuổi trẻ bị đánh mất. Viết về tuổi già xót xa tuổi trẻ. Về nỗi xót thương nhau trong những trái tim mệt mỏi, những mái đầu tóc bạc đang tính đếm những ngày còn lại…

Hanoi – Haiphong 2001 – 2002
Nguồn: amvc