Friday, 31 August 2012

Món quà

Hôm nay vốn là một ngày đặc biệt với Thu và nó càng đặc biệt hơn nữa vì Thu nhận được một món quà. Chị, một người bạn mới quen ngày hôm qua, gửi tin nhắn lúc Thu đang có học trò. Chị làm tặng Thu một bài thơ. Đây là lần đầu tiên trong đời Thu nhận được một bài thơ tặng mình vào đúng ngày này. Rất cảm động về những gì chị dành cho Thu. Niềm vui nhân đôi, nỗi buồn sẻ nửa. Thu mời bạn đọc TT nhân đôi niềm vui với Thu và chia đôi nỗi buồn với những ai còn chưa vui. Chúc nụ cười của chị luôn rạng rỡ trên môi và hạnh phúc luôn tràn ngập trong ánh mắt. 

DẤU ẤN MÙA THU!


TẶNG TQ - TT - HỒNG THU!
Bình minh rạng sáng mùa thu
Nghe lòng thức dậy, nao nao...tấm lòng!
Làn sương, vương nhẹ hai vai...
(...Lời Thu êm ái...! Mặt Người rạng soi!)
(*)

Người thân, hay lẽ...người sang?
Nhân duyên cứ víu, tôi quàng, tôi vơ,
Tôi ngồi, nghiền ngẫu viết thơ,
Như cởi... tấm lòng...như gỡ...mối tơ...!

Nhấp chuột, sao thấy nhẹ lòng...!
Bỗng dưng...bấm bụng...tôi chờ... tôi mong!
Rằng Người...có hiểu tôi không...?
- Nỗi lòng đau đáu...đa đoan về chiều...

A lô! sao hững...giựt mình...
Bên tai...vọng tiếng có ai gọi chào!
Ồ kìa! nghe lạ...quen...thân...!
- Cho tôi, bối rối...con tim,...rộn ràng.

Nghẹn ngào...! Như giấc chiêm bao,
"Người dưng, người lạ" - Đã thành người quen.
Đổi vàng để lấy chữ THÂN! (**)
- Hôm nay kết nghĩa - BẠN HIỀN - CHỊ - EM!

GC
(*)  sự linh cảm
(**) thân - con người - tình thân của con người 

Chuyện tình Cỏ may

Bài thơ được viết trong một ngày bất chợt gặp loài cỏ dại có tên là Hoa Cỏ may, chợt liên tưởng đến câu chuyện cổ tích về loài hoa này mà viết thành, tặng các bạn đọc chơi cho vui.
*

"Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều gió cả bám đầy áo em…"

Nguyễn Bính

***
*
Chuyện kể ngày xưa có một loài hoa dại.
Gọi tên em bình dị - Hoa cỏ may.
Cánh nhỏ mong manh, nắng sớm, gió dâng đầy,
thân cỏ liêu xiêu, dập dờn chiều nẻo vắng .
Từ lối nhỏ quanh co, hay góc vườn thầm lặng
trải rộng ven đê, hay thấp thoáng những chân đồi
khắp cả những nẻo đường
                       ngang dọc quê hương tôi
có những bông tím nhỏ
                 giăng giăng những đêm hè mộng mị.

Loài cỏ dại ẩn chứa bao tình ý!
Kể về câu chuyện tình buồn như mây nước đầy vơi.
Đất nước tôi.
Thời nào cũng có muôn vàn những câu chuyện cổ tích
Kể về các chàng trai ra đi
và những cô gái đợi chờ.
Tổ quốc tôi ít khi ngưng chinh chiến
Những xóm làng ít khi không có mùi tro than
Và dân quê tôi không ít những tháng năm
Cái đói xót lòng đẩy xô thêm ly biệt.

Có cô gái yêu chàng trai thắm thiết
Họ kết thành đôi như muôn thuở những tình yêu
Hạnh phúc mong manh không gánh nổi cột nhà xiêu
cơm áo gạo tiền buộc chàng trai ra đi để vợ hiền ở lại
Người đi sao cứ đi, đi mãi
Để người đợi chờ thương nhớ chẳng hề nguôi

Có những hòn Vọng phu đứng mãi ở bên đời
Chờ đợi tình yêu trong mỏi mòn, khắc khoải
Ở đâu đây cũng có những hòn Trống, Mái.
Giữa hoang sơ thành đá cũng cam lòng
Có những tình yêu biến thành núi thành sông.
Nguyện chung tình để bên nhau mãi mãi.

Chuyện cỏ may lại biến thành loài hoa dại
Để đi tìm hạnh phúc vốn mong manh
Đất nước tôi mỗi mầm cỏ lên xanh
Đều trăn trở kiếm tìm điều bình dị

Người xưa nói gì trong muôn vàn tình ý?
Ngợi ca lòng thủy chung hay chua chát cảnh đói nghèo?
Có điều gì trong những thôn xóm vắng teo?
Huếch hoác vắng chỉ còn ông bà già ở lại.
Có bao nhiêu cô gái
Không muốn biến mình thành cỏ may
Mà ham mê đua đòi chạy theo ảo mộng
Chịu lấy chồng tha phương để thoát phận đi cày!

Điều trăn trở nhỏ nhoi từ câu chuyện cỏ may
Sẽ trôi tuột vào lãng quên của một thời nhộn nhạo.
Có một niềm tin rằng nếu vượt qua dông bão
Giá trị tinh thần của ông cha sẽ mãi mãi vững bền.

Nhưng chiều nay ta không thể nào quên.
Lòng xao xuyến gặp một miền cỏ dại
Thương quá mây bay vào một ngày nắng quái.
Có những bông cỏ may man mác rợp trời chiều.

2012
(Cùng đăng trên Blog TQtrung)

Thursday, 30 August 2012

Nhân tai

Kỳ Duyên
 
Sống chung với thiên tai đã đành, người Việt giờ luôn phải (còn phải biết) sống chung với nhân tai- thói vô cảm, vô trách nhiệm, thói tham nhũng, giẫm đạp lên luật pháp vì lợi ích riêng. Đó là thứ... tình khốn khổ, và cũng cay cực làm sao!
Hà Nội và nhiều tỉnh phía bắc vừa bị cơn bão số 5 chạm phải. Nói như dân gian là thiên tai. Mới chỉ chạm phải, bão số 5 tàn phá hàng ngàn ngôi nhà, hàng nghìn héc ta lúa và hoa màu hư hỏng. Thậm chí mang tang tóc đến cho nhiều gia đình. Thiên nhiên vĩ đại, kỳ thú và thiên nhiên cũng hung hãn, tàn bạo...
Con số 42 người chết, mất tích và bị thương, đặc biệt trong đó, có 1 người lái xe taxi tại Hà Nội chết ngay trong xe vì bị cây đổ bất ngờ, để lại người vợ trẻ và 2 đứa con thơ ngơ ngác đã khiến không ít người xót xa.
Nghìn năm và... tử thần?
 
Nhưng kinh hoàng nhất, tự dưng, con đường Lê Văn Lương kéo dài- công trình Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, vẫn đang trong thời gian bảo hành, đột nhiên... ngoác ra đến hàng trăm mét vuông, như một nụ cười vô duyên,  diễu cợt, tàn nhẫn. Đến nỗi, ngay lập tức, nụ cười này được gọi đích danh hố tử thần.
Hố tử thần chẳng...hổ danh. Chỉ trong vài giờ, nó đã nuốt trọn cả cổng chào lớn làm bằng inox cũng được lắp đặt từ dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội (2010).
Và giống như điệp khúc, xã hội đã được xem bằng tai, cuộc đấu bóng... đá trách nhiệm, đôi co, cãi vã qua lại, của những bên có liên quan, ngay bên bờ hố tử thần. Một bên là Tập đoàn Nam Cường (chủ đầu tư xây dựng đường trục Lê Văn Lương). Một bên là Công ty Sông Đà Thăng Long (chủ đầu tư khu đô thị Usilk City).
Ông Tổng Giám đốc Tập đoàn Nam Cường đá trước: Ngoài tác động ngoại cảnh là mưa bão, nguyên nhân góp phần xây dựng ...hố tử thần, là do Công ty Sông Đà Thăng Long thi công các tòa nhà sát mép đường không đảm bảo an toàn, gây ra sự việc nghiêm trọng này.
 
Lập tức, ông Chủ tịch HĐQT Công ty Sông Đà Thăng Long sút lại, khi cho rằng phát biểu áp đặt như vậy ảnh hưởng tới thương hiệu của công ty, là thiếu căn cứ, vv...và...vv... Dân gian thường triết lý, 3 người đàn bà và 1 con vịt  thành cái chợ. Lầm!
Trước đó, ông Nguyễn Hoàng Giáp, Chánh Thanh tra Sở GTVT Hà Nội khẳng định chất lượng đường không có vấn đề gì. Bởi nếu đường lún thì các rãnh cao su sẽ bong tróc, đứt gãy.
Thế nhưng, ngay lập tức, báo Người lao động (20/8) đã lột trần nguyên nhân- đó là chất lượng công trình:
GS. TSKH Nguyễn Trường Tiến, Chủ tịch Hội Cơ học đất và Đại kỹ thuật công trình VN, Trưởng Ban kỹ sư của Tổng hội Xây dựng VN khẳng định, chất lượng công trình có vấn đề. Theo ông Tiến, hầu hết các vụ sụt lún, trượt lở đều do 3 nguyên nhân chính là nền đất, hệ thống thoát nước phía dưới và con người.
...Tác nhân trực tiếp là trận mưa lớn nhưng nguyên nhân sâu xa là do đơn vị tư vấn thiết kế có thể đã không thẩm định, đo kiểm được toàn bộ địa chất cả tuyến đường, quá trình thi công con đường, hoặc các công trình xung quanh xảy ra thiếu sót trong đào đắp nền móng.
Còn TSKH Vũ Cao Minh, Viện Địa chất, người trực tiếp đến hiện trường, nhận xét: Hố tử thần trên đường Lê Văn Lương kéo dài xuất hiện là do lỗi kỹ thuật trong quá trình thi công, không phải do thiên nhiên như hố sụt dưới lòng đất. Tuy nhiên, lỗi cụ thể như thế nào thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác minh.
Đó là ý kiến của những nhà chuyên môn. Vẫn còn phải đợi các cơ quan chức năng vào cuộc điều tra, thẩm định độc lập và kết luận chính thức. Cũng như giờ đây, gia đình người lái xe tội nghiệp và Công ty taxi Mai Linh vẫn chờ đợi cái quả bóng trách nhiệm có lăn vào lưới của Công ty công viên- cây xanh không?
Nỗi đau xót của xã hội với cái chết oan uống và số phận khổ đau của gia đình người lái xe, rồi có thể qua đi, và vượt qua. Nhưng còn đó, hiện tượng gần 160 cây xanh bị bật gốc chỉ một cơn bão chạm nhẹ, phần lớn là xà cừ, muồng..., những loại cây rễ nông, gửi thông điệp gì cho ngành công viên- cây xanh? Hay tư duy trồng cây gì cho Hà Nội của ngành cũng...có rễ nông như vậy?
Không những thế, nhiều gốc cây còn bị tổn thương bởi có nhiều đường ống, dây cáp... chạy qua bộ rễ hết sức tùy tiện. Tùy tiện như cách hành xử, như lối làm việc tiểu nông, trở thành vô trách nhiệm, giờ đây phổ biến khắp cái Chợ mang tên Hà Nội.
Vô trách nhiệm, tư lợi, vô cảm, giờ đây liệu có phải là.. .dấu ấn đặc sắc đáng xấu hổ in lên các công trình nghìn năm và...nghìn tỷ của Thủ đô không?
Không nói đâu xa, con đường kéo dài Lê Văn Lương là một minh chứng cay đắng. Liệu hố tử thần này có phải là đồng chí đầu tiên bị lộ trong những đồng chí sẽ và sắp... bị lộ chưa?
Khi người ta đọc một vệt bài điều tra về các công trình nghìn năm và thất vọng quá vì những gì đang diễn ra.
Ví như tuyến đường đoạn Cầu Diễn- Nhổn (thuộc quốc lộ 32), chỉ dài 4 km, cũng được UBNDTP Hà Nội đưa vào công trình trọng điểm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. Nhưng 8 năm qua, con đường bò đỏng đảnh với tốc độ...rùa, chả hiểu vì sao. Đến nỗi dân gọi là con đường đau khổ.
Con đường đau khổ, rút cục được mệnh danh con đường lỗi hẹn- Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé. Bởi con đường này từng lỗi hẹn về sự khánh thành với Đại lễ, rồi lại lỗi hẹn không biết bao lần. Đến giờ, em hẹn tháng 10/2012. Ừ, Bao giờ cho đến... tháng 10 nhỉ?
Ngắn chỉ 4 km như tuyến đường đoạn Cầu Diễn- Nhổn đã vậy. Nhưng dài như Đại lộ Thăng Long (đường cao tốc Láng- Hòa Lạc), gần 30 km, có tổng đầu tư hơn 7500 tỷ đồng, từng được mệnh danh con đường đẹp nhất VN, mới sau 2 năm cắt băng khánh thành đã rệu rã tuổi... xế chiều. Con đường đẹp nhất VN, giờ thành con đường vô duyên .
Ví như Công viên Hòa Bình (Hà Nội), với mức đầu tư gần 300 tỷ đồng, nhưng tuổi thụ nghề xem chừng yểu quá. Chỉ sau 2 năm cắt băng khánh thành, rất nhanh, Công viên Hòa Bình trở thành công viên... bất an. Bởi sự xuống cấp rệu rã, nhếch nhác đã đành, nơi đây còn luôn là bãi đáp của tệ nạn xã hội. Rút cục, công viên lại đìu hiu chợ chiều, vì người tử tế rất ngại đến.
Công trình kỷ niệm nghìn năm, nhưng hồn vía được ...mấy năm?

Bầu Kiên và... nhân tai

Một vụ việc mới xảy ra, để lại cho dư luận nhiều...dư chấn.
Đó là thông tin ông Nguyễn Đức Kiên, báo chí gọi tắt là bầu Kiên, còn xã hội gọi Bố già (tên 1 bộ phim hình sự, xoay quanh cuộc đời của gia đình mafia gốc Italia Corleone), vừa bị cơ quan công an bắt giam vào chiếu tối 20/8, để điều tra về hành vi cố ý làm trái liên quan đến các hoạt động kinh tế. Dấu hiệu phạm tội rõ nhất là kinh doanh trái phép trong việc sử dụng 3 công ty con ông này thành lập.
Vừa đúng 49, tuổi vận hạn, theo cách nói của dân gian. Diện mạo khá trẻ, nhưng tóc ông bầu này đã bạc trắng, gương mặt vừa thâm trầm, vừa đa mưu túc kế, vừa khó nắm bắt thần thái, cái biệt danh Bố già, cũng đã nói phần nào tính cách, quyền lực ngầm của ông này trong cả lĩnh vực thể thao kiêm tài chính- ngân hàng.
Trong làng bóng đá, bầu Kiên là Phó Chủ tịch Công ty CP bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam - VPF, Chủ tịch CLB bóng đá Hà Nội. Người đời còn chưa quên vụ ông ta bất ngờ cướp diễn đàn, nói sa sả về những điều tồi tệ của bộ máy VFF, của Ban Tổ chức V-League, của đội ngũ trọng tài, giúp ông chủ của CLB Hà Nội ACB nổi danh như cồn. Và giờ đây, vụ ông ta bị bắt còn nổi hơn...
Tin về bầu Kiên lập tức trở thành tin hot nhất, luôn nằm ở cột đọc nhiều nhất của tất cả các trang báo.
 
Từng học ĐH Kỹ thuật quân sự trong nước, tu nghiệp ở nước ngoài, làm việc trong ngành dệt may, rồi đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng. Ngay khi còn rất trẻ, mới 30 tuổi, bầu Kiên đã trở thành Phó CT Hội đồng sáng lập cuả Ngân hàng Á Châu (ACB), 1 trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất VN. Đồng thời làm CT của hàng loạt công ty thời trang, nhựa đường, thể thao và cả liên doanh KFC.
Năm 2010, trong danh sách 100 người giàu nhất VN, với số cổ phiếu ACB có trong tay, gia đình bầu Kiên đạt tới giá trị khoảng 2000 tỷ đồng.
Từng đó trích ngang lí lịch, phải nói, ở góc độ 1 nam nhi, bầu Kiên thật tài, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng, bậc tiên hiền Nguyễn Du đã từng cảnh báo, chữ tài liền với chữ tai một vần, nếu tài năng đó không dựa trên những phương cách làm ăn chính trực, tuân thủ luật pháp.
Ở đây, như Thống đốc Ngân hàng Nguyễn Văn Bình đã thừa nhận trong phiên trả lời chất vấn. Rằng tuy ông Kiên nguyên là Phó CT Hội đồng sáng lập Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB), song cơ chế Hội đồng sáng lập này lại không có trong bất cứ văn bản pháp luật nào.
Bởi theo luật, các ngân hàng thương mại cổ phần chỉ có HĐQT và ban Điều hành.
Chỉ có điều, Ngân hàng Nhà nước đã để một cơ chế không có trong luật tồn tại lâu như vậy, mà không xử lý. Đến giờ, hóa mù ra mưa...
Bình tâm suy ngẫm, hiện tượng bầu Kiên và vụ việc bầu Kiên bị bắt chỉ là hiện tượng đương nhiên của 1 xã hội đang phát triển kinh tế thị trường. Cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu nhiều khi chen lẫn, trong khi luật pháp lại sơ hở, khiếm khuyết, chưa hoàn thiện, dễ bị những kẻ thông minh và láu cá qua mặt, lợi dụng.
Nhưng cũng vì thế, di họa sẽ xảy ra trong 1 thế giới phẳng, khi mà mọi thông tin từ sạch sẽ, sáng sủa, đến bẩn thỉu, mờ ám đều có thể tung lên mạng. Con người ta phải chịu trách nhiệm về hành vi, phẩm hạnh của mình. Nhân nào- quả nấy. Cái được xen lẫn cái mất. Có điều, cái Mất (thanh danh), mất quyền công dân, có khi không thể bù lại cái Được.
Vụ việc bầu Kiên bị bắt, vô tình làm che khuất đi nỗi nhức nhối của thứ nhân tai khác: tham nhũng.
Trong báo cáo các nội dung chất vấn tại phiên họp thứ 10 của ỦBTV Quốc hội của Thanh tra Chính phủ đã nhận định Tham nhũng vẫn là thách thức lớn với Đảng.
Một trong những thách thức lớn đó là chưa xóa bỏ được cơ chế xin- cho, điều kiện dung dưỡng và làm nảy sinh tham nhũng, nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài sản Nhà nước, tổ chức cán bộ, tín dụng, ngân hàng...
Còn trả lời phỏng vấn báo chí, ông Vũ Mão thẳng thắn: Ngay bản thân Luật PCTN cũng quy định phải kê khai, minh bạch tài sản. Nhưng ai kiểm tra, ai giám sát, mức độ trung thực của việc kê khai đến đâu thì lại chưa làm rõ.
Phần lớn kê khai thì ít hơn cái thực có, hơn nữa lại chưa có bước điều tra, xem xét xem tài sản đó có từ đâu ra mà chỉ là liệt kê đơn thuần. Do vậy, nhiều tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng nhưng chưa được làm rõ.
Sống chung với thiên tai đã đành, người Việt giờ lại phải sống chung với nhân tai- thói vô cảm, vô trách nhiệm, thói tham nhũng, giẫm đạp lên pháp luật vì lợi ích riêng.
Đó là thứ... tình khốn khổ, và cũng cay cực làm sao!
Nguồn VNN.VN

Suýt gặp nạn vì một câu thơ

Trịnh Anh Đạt
 
Chuyện sảy ra ở một thị trấn nhỏ bên bờ con sông Đáy vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Thị trấn nghèo xác xơ ấy, ngày đêm ngập chìm trong bụi than,  bụi đá, bụi vôi, khói và tiếng chuông nhà thờ ngân.
     Anh bạn tôi làm nghề rèn truyền thống “Cha truyền, con nối” chị vợ mở quán cơm phở bình dân, tần tảo nuôi mười miệng ăn. Dân cả vùng đói nghèo như dòng sông nhỏ bé, hàng ngày bị bã đá, bã vôi, than xỉ lấp dần đôi bờ con sông.Một lần gặp nhau, anh bạn than thở:
“- Khổ quá ông giáo ạ. Hàng quán ế ẩm, khách ăn chịu nợ, ký sổ… Vốn liếng cứ cụt dần.” Rồi anh kết luận :“- Cho chịu nợ là mất khách, “mất cả chì lẫn chài”. Quả thật vợ chồng tôi không muốn bán chịu, bắt chước người ta cứ để cái biển to tướng “Ở đây không bán chịu” hoặc “Miễn chịu” thấy nó thiêu thiếu văn hóa thế nào ấy. Ông giáo nghĩ giúp tôi một câu gì để chẳng mếch lòng ai. Đọc lên ai cũng thấy nói về mình, mà không nghĩ nói về mình”.
     Tôi phát hoảng lên vì đơn đặt hàng quá chân thành và kính trọng của anh. Không thể từ chối, tôi tìm hiểu kỹ “Chân dung con nợ “ của vợ chồng anh, mới hay đối tượng ký sổ thường là những kẻ “bốc giời bỏ bị” họ kéo vào quán trong tâm trạng đầy phấn kích “Ăn to nói lớn”, “Tiền hô hậu ủng”:”-“Hôm nay cho các đàn em  “xả láng !”. Vô tư đi! Anh vừa “trúng mánh”. Hoặc: “- Bà chị! Tùy hứng “dzô” chứ bà chị? “Quả” hôm nay trúng đậm thế cơ mà” V.v…và v.v…
Khi đã “mồi dư tửu hậu” họ lũ lượt kéo đi, quẳng lại phía chủ quán một câu lạnh lùng, ráo hoảnh: “- Ê! Chủ quán!... Ký sổ!”
                                                    
                                                     *
                                                 *       *
   
   
    Để đáp lại tấm lòng ngưỡng mộ của bạn, một tuần sau tôi đã có tác phẩm trình làng. Gọi là “tác phẩm”  vì các cung đoạn từ A đến Z là do tôi đích thân thực hiện. Anh vui mừng, hồ hởi và rất tự hào về cái “tác phẩm độc nhất vô nhị” này. Gặp ai, anh cũng khoe “:- Của ông giáo làm tặng tôi đấy!”
       Ít lâu sau đến thăm anh, thấy thấp thoáng bóng tôi, anh chạy ra tận cửa đón, miệng nói líu tíu, mặt cắt không ra máu :
“- Ôi nguy rồi, nguy rồi! Ông giáo phải đi khỏi đây ngay! Ông Đá và ông Vênh đang theo dõi ông đấy!”.
Chẳng hiểu “mô tê”, tôi chấn tĩnh bảo anh:
“- Thôi ta vào nhà, vào chỗ kín nói chuyện.”
Quên cả pha trà mời tôi, anh kể một mạch:
“- Hôm rồi ông Vênh trưởng trạm y tế dẫn ông Đá, bí thư thị trấn vào quán tôi chiêu đãi. Trong lúc chờ ăn, đọc câu thơ của ông giáo, cả hai người cứ tấm tắc khen hay, họ hỏi tôi, tôi cũng chẳng dấu diếm, nói là của ông giáo làm tặng. Thế rồi lúc no say, hai ông ấy lại dở giọng: “- Láo! Đây là một câu thơ phản động! Bêu xấu xã hội! Nếu ông bà không cho dỡ xuống, chúng tôi sẽ ra lệnh đóng cửa quán, hoặc tống tù kẻ lộng ngôn!...” “- Ông giáo ơi! Mong ông thông cảm” Anh khẩn khoản: “- Vì mười miệng ăn, mà tôi phải dỡ tấm biển của ông giáo xuống rồi. Tôi có tội quá!”
Anh rơm rớm nước mắt… Trong tôi trào dâng bao nỗi nghẹn ngào, chua xót. Tôi đường đột hỏi anh:
“- Nhưng điều quan trọng nhất là khi no say rồi, các ông ấy có sòng phẳng với anh chị không?”.
“- Không! Họ ký sổ và hẹn chiều nay đem trả”
Anh nhìn tôi. Còn tôi thì cười phá lên:
“- Anh yên tâm đi. Tôi không đi đâu cả, sẽ ở lại để đối chất với họ.”
Nghe nói vậy, anh hoang mang, lo lắng, nói như mếu:
“- Tôi xin ông giáo! Có mệnh hệ gì, tôi ân hận suốt đời!”
“- Không! Anh yên tâm. Rồi dứt khoát: “- Tôi là người lính, từng hy sinh, đổ máu cho độc lập, tự do của đất nước này, vì vậy tôi không bao giờ đối đầu với dân, với chính quyền. Phải vạch mặt bọn cơ hội, dựa danh bắt nạt, hà hiếp dân lành để chịu nợ, lừa đảo!”
 
 Chiều ấy tôi quyết ở lại quán anh, và Vênh đến thật. Ngất ngưỡng vào nhà, thấy tôi, Vênh nói như hô: “-A! Chào “ Nhà thơ!”. Rồi chìa bàn tay múp míp ra cho tôi bắt. Tôi không bắt tay Vênh, Vênh nhíu mày nói tiếp:
“- Chúng tôi cảnh giác lắm “Nhà thơ” ạ! Trai gái đất nước này, anh hùng, tài giỏi là trên trận tuyến chống giặc ngoại xâm, chứ không phải là vào quán ăn chịu như ông nghĩ.”
       Tôi nhìn thẳng vào mặt V.:”- Ông là gì mà nhân danh pháp luật buộc tội tôi? Việc phải làm ngay là sòng phẳng khoản nợ của bạn tôi đã!”
Vênh sững người, lúng túng móc ví, lấy tiền ra trả nợ. Tôi cười nói:
“- Rất cảm ơn ông Vênh!”
Rồi chủ động chìa tay ra cho Vênh bắt. Nắm bàn tay tôi, Vênh rụt ngay tay lại  như chạm phải lửa, miệng ú ớ:
“- Ơ… Lúc nãy... Ông... Ông... ông không bắt tay tôi???!!!”
“- Vâng!” Tôi nói  :“- Tôi chỉ quen bắt tay những người sòng phẳng!”
Vênh ngượng ngùng bước ra khỏi quán. Anh bạn tôi lấy tấm biển treo lên chỗ cũ rồi đọc rõ to cho mọi người cùng nghe câu thơ tôi viết:
Trai tài gái giỏi ở đâu
Vào đây sao nỡ nói câu –“ CHỊU TIỀN!”
                    
TAĐ
Nguồn: trannhuong.com

Tai nạn thơ nhớ đời

Nguyễn Vũ Tiềm
 
Nhân có sự cố thơ ở Đồng Nai, tôi lại nhớ vụ tai nạn thơ do tôi gây ra khiến bốn thầy cô giáo ở trường PTTH Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre phải mất việc. Bốn thầy cô đều là sinh viên Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh mới ra trường xung phong đến tỉnh xa hình như được một hai năm, đang rất nhiệt tình sôi nổi bỗng dưng bị kỷ luật nặng nề oan uổng và cay đắng!
Vụ này là vết thương đau của tôi và sự day dứt khôn nguôi của một số đồng nghiệp.Nguyên do thế này, khoảng đầu thập niên 80 thế kỷ trước, tôi là phóng viên báo Giáo viên Nhân dân (nay là báo Giáo dục & Thời đại, Bộ Giáo dục & Đào tạo) tôi viết bài thơ và được báo nhà đăng. Bài thơ dưới đây:

CÔ GIÁO EM GIÀU NHẤT
Nếu tình thương là quý nhất trên đời
Cô giáo em là người giàu có nhất
Cô dành trọn tình thương cho học trò lớp lớp
Bao năm rồi không một chút cạn vơi.

Quý nhất nữa phải chăng là hiểu biết
Cô giáo em là người giàu có nhất
Năm tháng xếp cao giá sách trong nhà
Những chân trời, cô dẫn chúng em qua.

Nếu đời còn quý nhất nữa: niềm tin
Cô giáo em là người giàu có nhất
Cô tin chúng em, dù đứa hư, đứa nghịch
Vẫn là nguồn hy vọng của mai sau.

Cái quý nhất, cô đều giàu có nhất
Cái cần thiết hàng ngày lại thiếu thốn quanh năm
Bữa khoai sáng nhường mẹ già, con nhỏ
Cô lả trên bàn giữa tiết thứ năm.

Dìu cô về nhà, chúng em rửa xoong nấu cháo
Nổi lửa lên rồi, mở thùng gạo: trống trơn
Cả lớp thương cô òa lên khóc
Sự thật nay có ai biết hay không?
Khoảng nửa năm sau khi bài báo in, một hôm có một cô gái trẻ khoảng ngoài 20 đến 35 Lê Thánh Tôn, TP Hồ Chí Minh, cơ quan của Báo Giáo dục & Thời đại các tỉnh phía Nam gặp tôi. Mới thoáng nhìn, tôi biết ngay là cô giáo bởi phong thái khoan thai duyên dáng nói năng chuẩn mực, tự tin. Dáng cô thanh thoát, da trắng, mặt trái xoan, xinh đẹp.
-Em là giáo viên trường cấp 3 Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre, gặp nhà báo phản ánh một việc.
Tôi lắng nghe, ghi chép. Tóm tắt sự việc như sau.

Sắp đến ngày 20 tháng 11, lãnh đạo nhà trường có kế hoạch tổ chức buổi liên hoan văn nghệ. Bốn thầy cô giáo trẻ mới về (hai nam, hai nữ) được phân công tổ chức các tiết mục. Trong số đó có hoạt cảnh ngắn, (một màn hay hai màn tôi không nhớ rõ) lấy bài thơ trên làm nền. Một em gái cao gày chững chạc đóng cô giáo, một số em đóng học sinh, một hay hai em có giọng tốt đọc thơ. Một số câu các em đọc 2,3 lần rất xúc động kết hợp với cảnh diễn sinh động có hồn khiến nhiều người xem không cầm được nước mắt.

Bỗng mấy ngày sau, bốn thầy cô giáo trẻ được mời lên văn phòng bắt kiểm điểm với lý do là tiết mục “Cô giáo em giàu nhất” gây tâm trạng buồn nản, hoang mang, trong khi ta đang cần hun đúc tinh thần phấn khởi, tin tưởng, tự hào; rằng bài thơ ấy, tiết mục ấy có ẩn ý bôi đen chế độ trong khi chế độ ta rất tươi đẹp.
Bốn thầy cô giáo xin phát biểu, với lý do:
-Bài thơ đã đăng ở báo của Bộ Giáo dục, chứ họ không bịa ra. Mà báo của Bộ chắc là không bôi đen chế độ.
-Sự thật lương giáo viên hầu hết là không đủ sống. Muốn cầm cự trong một tháng, họ phải bươn chải bằng nhiều cách.
-Nhiều trường vẫn đang còn nợ lương giáo viên hai ba tháng, có khi hơn.
-Tiết mục ấy từ lúc tập, các em đã rất hào hứng và xúc động, có em khi tập đã rơi nước mắt. Tiết mục diễn xong được nhiều người khen ngợi.
Mấy ngày sau bốn thầy cô nhận được bốn quyết định cho nghỉ việc với lý do: không thành khẩn nhận khuyết điểm, tư tưởng không lành mạnh, không phù hợp công tác ở ngành giáo dục.
Cô lấy tờ quyết đinh kỷ luật cho tôi xem. Tôi lạnh toát cả người. Rồi cô rút tờ báo Giáo viên Nhân dân, mở trước mặt tôi bài thơ và hỏi:
-Anh có biết tác giả bài thơ này ở đâu không?
Tôi bủn rủn cả người, tự thấy mình như một tội phạm, nói:
-Tác giả bài thơ này, cái gã tội phạm ấy đang ngồi trước mặt cô.
Tôi hứa với cô là Báo sẽ có công văn đến Sở, đến trường kiên quyết đứng về phía bốn thầy cô, khẳng định các thầy cô và các em hoàn toàn trong sáng, động cơ tốt.
Ông Lê Khắc Hoan (hiện đang ở TP HCM) thay mặt lãnh đạo Báo có ngay công văn đến Sở Giáo Dục Bến Tre, trường PTTH Nguyễn Đình Chiểu khẳng định bài thơ có nội dung tốt, nêu cao tình thần khắc phục khó khăn của nhiều thầy cô dù thiếu thốn đến đâu, vẫn bám trường bám lớp, vì học sinh thân yêu… Tiết mục văn nghệ xây dựng từ bài thơ ấy có mục đích tốt. Đề nghị Quý Sở, Quý trưởng xóa kỷ luật, để bốn thầy cô giáo trở lại công tác bình thường…
Nhưng tiếc thay, án kỷ luật đó không được thay đổi.
Khoảng mươi năm sau, tình cờ tôi gặp một trong hai cô giáo ấy, cô vẫn rất yêu nghề, là thành viên của một tổ chức nhân đạo nuôi dạy trẻ không gia đình ở quận 8. Tôi hỏi thăm ba thày cô kia, cô cho biết mỗi người kiếm sống một nơi, nói chung là rất khó khăn vv…
Nhắc lại chuyện cũ mà xót xa. Không biết các bạn bây giờ ở đâu, nghề nghiệp, cuộc sống ra sao? Nếu đọc được bài này, mong các bạn liên lạc với tôi, người dự phần trong cuộc, số điện thoại: 0909 450 871, chúng ta cùng chia sẻ với nhau về một thời gian truân và ấu trĩ một cách… nực cười. Rất mong!
 
Nguồn: trannhuong.com 

Tôi ru tôi ngủ



Tôi ru tôi ngủ
Một sớm mùa thu
Nghe ra nỗi buồn
Nằm nghiêng trong nắng


Tôi ru tôi ngủ
Chiều thu lặng lặng
Nghe trong gió nhẹ
Tiếng ai thở dài

Tôi ru tôi ngủ
Giọt sương đầy quá
Đôi tay còn lạnh
Giấc mơ đâu rồi

Mây hỡi, mưa hỡi
Hãy về đây
Tôi không muốn ru tôi
Bằng lời ca nhạt nhẽo

Mây hỡi, mưa hỡi
Hãy về đây
Tôi không muốn ru tôi
Bằng ước ao xa vời

Lời ru tôi
Sao bối rối
Bên sông
Trăng không hẹn
Ngày mai sẽ chóng về

Bánh trái mùa xưa


Tết một lần, cùng hai lần đám giỗ, cậu lại ra nhà người anh cùng cha khác mẹ với mình. Lành như củ khoai, lành như đất, lành như một người kém trí, như cái tên Út Khờ. Đi lần nào cũng quên vài thứ, không quên mang dép thì cũng quên đội nón, nhưng có thứ cậu không bao giờ quên mang tới nhà anh chị cậu, là bánh. Giỗ này cậu đem bánh bột đậu, giỗ sau cậu góp cốm ngào đường, tết thường có bánh kẹp cuốn, bánh bông lan, bột đậu. Những thứ bánh trái quê mùa, nằm vơ vất trên bàn thờ, giữa những món đồ cúng đẹp đẽ khác. Vơ vất như thân phận của cậu: con riêng của ông nội với người đàn bà khác.
Anh chị và đám cháu không mê bánh nhà quê đó. Chỉ con nhỏ giúp việc nhà anh cậu là đón mừng nhiệt tình. Ăn một cái bánh nghe ngon nhức cả ký ức. Bánh của cậu gợi nhớ má nó đang nằm ho ở cái quê mị cà tha nào đó. Nó biết để có mớ bánh này, mợ (cũng hiền hậu thiệt thà y như cậu) đã phải nhồi bột đánh trứng từ hôm qua. Bột trứng dẻo nhẹo, cầm bàn chụp đánh mỏi nhừ tay, thì bột mới dậy, nở bung trong diệm, rồi được đem đi nướng. Than rực dưới đáy khuôn bánh, rải ủ đều trên cái nắp bằng gang nữa, cho hai mặt bánh vàng đều. Những mẻ bánh đầu hoặc khét quá hoặc chưa được vàng ươm như ý, mợ để lại nhà. Mớ bánh cậu mang đi phải là mớ bánh đẹp nhất, nuột nhất sau khi mợ trăn trở lửa trên lửa dưới. Mợ còn cắt giấy màu thành những sợi mảnh, rải vào keo bánh vừa để hút ẩm vừa trang trí cho đẹp.

Cậu mợ không biết rằng ra khỏi xóm làng rồi, vẻ đẹp ấy trở nên lạc lõng, bơ vơ. Chị dâu cậu thường càm ràm, đã nói đem bánh trái ra chi mắc công, có ai ăn đâu… Cậu hiền lắm, nói mười hiểu hai, cười cười, cúng ba má mà đi tay không, coi sao được chị.
Má con nhỏ giúp việc cũng thường nói vậy, khi lụi hụi chuẩn bị bột, nhân, lá để làm bánh này nọ đi cúng quảy ở nhà họ hàng. Cái hồi người ta chưa bán bột làm sẵn, má nó còn phải ngâm gạo nếp qua đêm, có khi ngâm với khóm cho gạo mau mềm, để xây làm bột. Làm bánh, nói gọn lỏn vậy mà có bao nhiêu chuyện lắt nhắt phải lo, đến nỗi tàu lá đem ra phơi nắng cho vừa héo để gói bánh, trẻ con cũng không phụ được, vì không biết cỡ nào mới vừa. Má nó lo toan hết. Chị em nó mười, mười hai tuổi đã được má dạy làm bánh, thành con gái rồi má nó vẫn lo “mấy đứa làm chưa khéo…”. Chị nó lấy chồng năm rồi, chuẩn bị cho đám gã, má nướng bánh bột đậu, bánh kẹp từ năm ngày trước.
Một cái đám ở quê thường được nhắc nhớ bởi những món ăn ngon. Bây giờ người ta vẫn nhắc món bánh bò bông má nó làm hôm gã chị. Mịn và xốp, và những múi bánh như cánh hoa nở đều đặn, tươi tắn. Làm ra một món ăn ngon, hay một cái bánh ngon, thì đến lửa nhỏ lửa lớn mình cũng phải chăm chút nữa. Má con nhỏ giúp việc không nói vậy, nhưng nó tự học từ cái cách bà nắn nót rút bớt cây củi ra khỏi bếp, hoặc thêm vào mấy cục than.
Hồi đó, mỗi lần má con nhỏ làm bánh là cả một cuộc hội hè. Ngoài những thứ bánh được gọi là sang chỉ có ở những giỗ, Chạp, hay dịp tảo mộ, còn có những tiệc tùng đơn sơ hơn, ít tốn kém hơn, mà vẫn thấm đẫm hương vị. Xay lá mơ tam thể với bột, đắp vào lá mít hấp lên chan nước cốt dừa, vậy là con nhỏ được ăn bánh rau mơ. Bột trắng cán bằng chai, xong xắt sợi thả vào xoong nước đường, bột chín nổi lên mặt nước vậy là thành bánh canh ngọt cho đám nhỏ sì sụp. Hôm nào có cá lóc thì má nó nấu bánh canh mặn. Rồi thì bánh chuối hấp, chuối chiên, bánh cam nhân đậu… Bột bánh ít thừa ra từ lần làm bánh trước, má nó đem treo giàn bếp, hôm nào mưa dầm bà đem chiên lên, chị em nó lại được gặm món bánh tổ nóng hổi.
Con nhỏ giúp việc, lần đầu tới nhà chủ, nó khoe nó biết làm nhiều loại bánh, kể cả mấy loại bánh ngon hết xảy như kẹp cuốn, tai yến, tàng ong… tất nhiên là không ngon bằng má nó làm. Nhưng bà chủ phủi đi, nhà bà không làm bánh bao giờ, muốn thì bước ra cửa, thiếu cha gì món ngon, ì ạch làm gì cực thân. Bà cũng từng nói với thằng em chồng khờ khạo của mình câu đó.
Và cậu Út hiền lắm, nói mười hiểu ba, lại nhoẻn cười bảo, nhưng vui lắm, chị.
Con nhỏ giúp việc cũng từng nghe câu nói đó từ người mẹ của mình. Cực mà vui. Chỉ là không biết giải thích làm sao với người khác niềm vui sướng khi lấy từ khuôn gang nóng rực ra những cái bánh thơm lừng, ngui ngút khói. Mẻ bánh đầu đời đó, con nhỏ vẫn còn nhớ, những hạt đậu phộng rang nó ấn vào giữa cái bánh như một nhụy hoa, nhưng bánh nướng xong thì đậu rơi mất, bánh bột đậu trở thành bánh bột. Má nó nói phải học từ chuyện nhỏ xíu vậy, mới làm được cái bánh vừa đẹp vừa ngon.
Ta chỉ cần ví cảm giác đó với cảm giác cô nghệ sỹ múa ba lê vừa hoàn thành một cú xoay khó. Kinh điển, với chỉ chừng ấy động tác, nhưng từ đời này sang đời khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, người nghệ sỹ vẫn đổ mồ hôi để cố hoàn thiện nó. Nhưng cậu hiền đến ngớ ngẩn, nên chỉ có thể nói cực mà vui, để nhận được từ con nhỏ giúp việc một cái gật đầu đồng tình, đúng đó, vui. Người chợ thì nhăn mặt ngán ngẩm, nói gần nói xa mà không dẹp được vụ bánh trái quê mùa này.
Cũng phải, dẹp cả một nền văn hóa thảo thơm đồng bãi, đâu có dễ… 

Nguyễn Ngọc Tư

Chuyện nhỏ dọc đường


Khi ấy thì luận văn mà thầy hướng dẫn xong lâu rồi, và em đang chờ việc. Khi ấy thầy đã đưa em đi nhiều chỗ, những phố xá phẳng phiu tẻ nhạt, những cánh rừng cao su dày dày tầng lá, những bãi biển nhàu nhĩ rác và người. Rồi thầy bỗng hỏi có muốn đi chơi xa không, em tê dại gật đầu mà không thèm suy nghĩ tẹo nào, lỡ thầy đổi ý gọi con nhỏ khác trong số mấy chục đứa đang mê thầy, thì uổng. Em còn chưa biết thầy muốn lái xe gần bốn trăm cây số đến một thị trấn rừng nào đó nằm rìa biên giới, mà chỉ ngó bản đồ thôi đã thấy cheo leo rồi.
Em còn chưa biết chỗ đó có khách sạn nào tử tế không. Ý nghĩ đó xuất hiện liên tục suốt đường đi làm em thấy mình hơi trơ trẽn. Luôn có chữ “khách sạn” hoặc “giường” xuất hiện khi em nghĩ về thầy, và sau đó thì một cơn nóng sốt chạy qua da thịt làm những sợi lông măng dựng đứng. Bất chấp thầy là thánh của em, thánh không gắn liền với thứ trần tục như giường, nhưng không sao dừng được kiểu liên tưởng kỳ cục đó.

Cũng như em chẳng thể dừng được cảm giác nhột rờn rờn khắp người khi nhìn bộ râu Clark Gable tỉa  khéo của thầy, vẫn như ngửi thấy mùi cà phê sữa thơm tho vương trên đó. Nhớ chúng rục rịch bò lên da cổ khi thầy hỏi sao em mê thầy, hỏi chỉ để nghe em thổn thức, trong khi thầy quá biết là tại sao. Thầy được tôn thờ không chỉ thầy là thầy, là người hướng dẫn làm những luận án về văn hóa dân gian, sức hút của thầy vượt lên những kiến thức mà thầy có. Vẻ điển trai, phong độ như tài tử điện ảnh. Thẳng thớm, phớt lạnh như tượng đài. Quyến rũ lìm lịm như một thứ trái cây chín trĩu lủng lỉu ở trên cây. Tất cả những điều đó, soi vào mắt đàn bà, nhất là đám nghiên cứu sinh, thầy thấy hết. Tụi nhỏ chẳng còn giữ được chút tỉnh táo nào khi đứng trước thầy, và khi bàn tay mềm ấm kia chạm vào người chúng, không đứa nào là không tan ra.
Em tan nhiều rồi, những đầu ngón tay thầy đang gõ nhịp trên đùi em theo giai điệu của một bản nhạc réo rắt trong xe, hứa hẹn những cuộc tan chảy mới. Ôi một thị trấn miền rừng hoang dã, khách sạn ọp ẹp, giường đầy rệp và hăng hăng mùi ẩm mốc, trên vách tường vôi cũ mèm hẳn có treo cái tranh hai con chim đang châu mỏ, và quạt thì rên như một đứa con nít bị nhức răng…
Em thử hình dung quang cảnh ở đó trong lúc thầy lái xe một tay và hân hoan huýt sáo. Tay kia mơn lên hỏm cổ em, thầy nói nắng đẹp chưa kìa, cưng ! Nhưng em xuất thân nhà quê, từ nhỏ đã biết nhìn trời, thấy nắng thiu thỉu kiểu này chắc chắn chút nữa sẽ mưa. Và mây đen đang núp đâu đó ở dãy đồi chạy dọc theo con đường hiu quạnh bất ngờ nhảy xổ ra ở một khúc quanh nào đó.
Những trò trốn tìm luôn xảy ra trên những con đường đèo dốc quanh quanh kiểu này. Vạt hoa biến mất rồi bất ngờ xuất hiện trở lại vàng dằng dặc. Bầy bướm bỗng dưng chìm vào cánh rừng thưa rồi bỗng dưng hiện ra đông như vãi, đến hoang mang cả tay lái. Đang cây lá rậm rịt bỗng một ngọn đồi trọc đập vào mắt. Và đang vắng ngắt thì bỗng có mấy anh cảnh sát giao thông đứng lấp ló dưới vòm cây hoa đỏ.
Phượng sót. Hoa như cái biển cảnh báo đỏ chót khiến xe đang bon bon ngon trớn phải sần sật dừng lại. Ôi vậy à, thầy vỗ trán kêu lên với anh cảnh sát mặt đen mắt trắng, quá tốc độ sao ? Người gì mà đến vỗ trán sững sốt cũng đầy duyên dáng, em ngây ra ngó thầy, sợ chớp mắt thì sẽ bỏ lỡ những cử chỉ đáng yêu kia.
Nên em thấy thầy hơi tái mặt khi những tờ giấy bạc thầy dúi vào tay anh cảnh sát bị thẳng thừng trả lại, biên bản phạt lại thò thêm một dòng “có hành vi hối lộ người thi hành công vụ”. Cái tư thế đĩnh đạc của thầy như một thân cây chuối bị chém bằng cây dao lụt, không đứt nhưng oằn. Xe chắc chắn bị giữ, và tròn tháng sau thầy phải ngồi xe đò đi mấy trăm cây số quay trở lại đây để nộp phạt. Nghĩ thôi đã nhiêu khê. Chưa kể chuyến du hí miền biên ải sẽ bị hoãn lại. Tiền không thông, thầy chìa ra bao nhiêu nài nỉ, tay thầy như chắp lại một cách vô thức, lưng thầy bắt đầu cong và đầu gối thì chùng. Mấy anh cảnh sát rừng vẫn im như tượng. Người miền rừng ngộ thiệt, không xúc động khi nhìn thấy tiền. Thầy bắt đầu tìm kiếm hy vọng từ những cú điện thoại, mong thoát khỏi chỗ đó từ những mối quan hệ như anh nuôi của thím, dượng rễ của chị dâu, sui gia của dì vợ…, những người mà thầy từng bâng quơ nghe nói có một chút chức sắc ở vùng này. Hình như cuộc gọi nào cũng nhận được câu chưng hửng, “Ủa, rồi anh làm gì mị trên đó, đi với ai ?”. Dĩ nhiên là thầy không đi với em đâu, mà “với mấy đồng nghiệp cùng khoa”.
Những tín hiệu cầu cứu nháo nhác gởi lên trời. Em đã bị thầy đưa mắt đẩy đi từ lúc mới xuống xe, giờ dạt vô gốc cây, đi lại tha thẩn, áy náy khi thấy râu thầy chảy xuống, giật mình khi thầy tung một cú đá sốt ruột vào chắn trước. Và khi mấy anh cảnh sát dửng dưng bỏ mọi người ở đấy để đi vào thị trấn ăn cơm trưa, thầy ngồi phịch xuống cỏ như một thằng cha đánh xe bò bị mất bò, như phù thủy mất chổi, như chim rụng cánh.
Cũng đành. Em tìm kiếm một điều gì đó ở thầy vừa bị rơi mất. Thầy thì ngóng đợi mà chẳng biết chờ cái gì ở những miền mây đen bắt đầu giăng giăng.
Cơn mưa lúc xế trưa mang lại một phép màu. Một cuộc gọi chẳng biết xuất phát từ nơi nào, anh cảnh sát vừa vâng dạ vừa đưa mắt nhìn thầy, sau đó chìa ra giấy tờ xe, vỗ vai bảo đi. Thầy líu ríu níu chặt lấy nắm giấy, khóm róm nói biết ơn lắm lắm.
Xe chui vô mưa. Bản “Sonata ánh trăng” lại vẳng lên nối lại chỗ bị đứt rời lúc sáng. Bốn giờ đồng hồ trước nó dìu dặt vậy, giờ lại giống con chim bay lạc, đập cánh loạng choạng vào những tấm kính xe. Thầy nín thít. Em cũng không biết nói gì, cố nắm bắt một mối nào để nối lại cái gì đó đã đứt. Mưa dội xuống, vỡ ra ròng ròng trên kính. Thầy vặn nhạc nhỏ lại, rồi nhỏ nữa, rồi hậm hực tắt luôn. Cảm giác con chim lạc bị một bàn tay bóp chết lịm, không kịp kêu. Im lặng bắt đầu dâng lên tận nóc xe, em thấy ngộp.
- Xuống đi.
Thầy bảo. Sau cú dừng xe đột ngột. Sau cái ý nghĩ về chuyện đón xe đò bỗng lướt qua đầu em. Sau quãng im lặng đông cứng. Em lếch thếch xuống, dù thầy không nói gì thêm, nhưng không hiểu sao em biết mình đã bị bỏ lại rồi, cho dù thầy có quay xe lại thì cũng để đưa cho em cái ba lô quên trên ấy.
Thầy đã chẳng nhìn em lần nào, từ lúc bị kẹt lại dưới những chùm phượng sót.    

Nguyễn Ngọc Tư

Kịch ở làng


Bà má nghe tức ngực từ lúc tiếng loa rao dặt dìu từ dưới sông vẳng lên nhà. Gió vặn cái tin hội chợ về xóm Củi vẹo thành nhiều khúc, nghe chữ gần chữ xa. Tự dưng từng cơn ho xếp hàng dọc chen đùn lên căng ứ trong cổ họng bà. Nhàn nấu cơm sớm để bà má ăn dằn bụng trước khi uống thuốc, nghe tiếng ho trên nhà ruột chị teo mấy đoạn. 
Hội chợ ở lại chỉ hai ngày. Anh nói trên điện thoại rằng lần này quay lại xóm Củi chỉ vì Nhàn. Nghe cái giọng mỏi mòn, nhuốm một chút vô vọng, “hội chợ đã đáo đi đáo lại cái xóm đó bảy lần rồi, tụi con nít ớn rồi...”  
Ghe hội chợ cặm ở đầu rạch Bà Chiếc, gần một sân bóng nhỏ. Lần đầu hội chợ về đó, đám nhỏ nôn nao gần như không thể nuốt nổi cơm. Hội chợ khuấy đảo dải xóm bởi tiếng rao giòn không kịp thở vẳng lên từ mấy gian hàng có trò hơn thua như ném vòng vào lon nước ngọt, ném bóng qua ô, lô tô; những bài hát trẻ con đã nhão nói về cái sự thương nhau của cả nhà phát ra hết cỡ từ mấy cái đu quay ngựa xanh thỏ đỏ… Ở xa sẽ nghe một bài hát hỗn loạn rằng “cờ ra con mấy, tóc bà trắng bà trắng như mây, ném vô vòng trúng gói mì tôm, không ném vô vòng em để chàng ôm…”.  

Nhàn quá tuổi con nít ham chơi, nhưng hội chợ áp vào cô ngay từ ngày đầu. Mắt ấm, cái cười ấm.  
- Bọn này là ai ấy hả? Nửa sơn đông nửa gánh hát nửa lừa gạt gái nhà quê. 
Người đàn ông ấy cười khi tới nhà Nhàn mua vài cây tre để cặm lều. Và hỏi tiếp, cô có dám theo theo tôi không? 
Sau này, câu ấy lặp đi lặp lại nhưng càng ngày lưỡi người nọ càng đuối đi, dịch vị nài nỉ làm cho từng chữ rã rời. 
Anh nói Nhàn ơi theo anh đi.          
Nhàn nói vú sữa chín đầy cây nên phải hái 
Anh nói sống vì mình trước hết.
Nhàn nói chanh giấy cũng sắp tới mùa 
Anh nói chờ cho tới chừng nào? 
Nhàn nói bà má đang đau.  
Phổi của bà già nhạy cảm kỳ lạ. Nó hay càu nhàu sưng sỉa vì những thứ tưởng chẳng liên quan gì đến việc hít thở, như người ta vẫn hay hào hển vì nắng mưa đột ngột, độ ẩm không khí cao. Nó khò khè vì tiếng chuông leng keng của anh cà rem mỗi khi ghé qua nhà xin nước uống, nó ho hen vì mùi mồ hôi ngai ngái của anh trưởng ấp đến bảo treo cờ vào dịp lễ, nó quăng quật bà già sáu mươi chín tuổi chỉ vì những tiếng thở dài của con đàn bà son trẻ thảng hoặc vẳng lại sàn nước bên hè. Lần sửa lại nhà dưới, bà già ho gần một tháng, không biết vì mùi lá mục ẩm ướt vừa giở ra, hay mùi dăm bào xước lên từ những thân cây đã ngâm trong nước lâu ngày giờ được vớt lên làm kèo, cột. Bà má ho cặm đầu, Nhàn cũng rầu nên không cười khi một anh thợ mộc ngẩn ngơ bảo tối qua anh thấy em gội tóc trong chiêm bao.  
- Cái thằng mặt mũi sáng sủa, bây thấy được thì cứ bước tới…  
Bà già xúi. Nhàn cười, biết câu sau đây của bà sẽ là “đàn bà có thì, đừng để lỡ. Thằng Tường không biết còn mất, hơi sức đâu mà chờ...”.  
Tường, thằng đàn ông duy nhất của nhà này đã khăn gói đi rằm tháng Giêng năm trước của ba năm trước[*] Nhàn chưa kịp quen với tiếng ngáy của anh ta, chưa kịp biết trên người có bao nhiêu nốt ruồi, và Tường cũng chưa kịp cấy vào bụng Nhàn một con lăng quăng biết biến thành đứa trẻ con biết khóc. Số phận Tường lúc đầu còn lờ lững theo những tin đồn, ai đó nói gặp Tường đập đá ở núi Sam, ai đó nói gặp một người giống Tường hay ôm gà đá ở chợ Thủ, ai đó nói Tường theo ghe biển làm ngư phủ, mất tích ngoài khơi sau mấy bữa giông bão tơi bời. Sau thì không nghe tăm tích. Cái tên Tường như chìm trong một dãi sương mù, mờ dần trên môi hai người đàn bà mòn mỏi. 
- Sống chết gì thì má cũng coi như không còn nó… - Bà má tuyên bố chắc nụi hôm đám giỗ chồng, với niềm tuyệt vọng vì đến giỗ cha mà thằng con cũng không thấy đâu - Bây thấy có đám nào được thì ưng cho rồi.      
Chuyện bà già xúi con dâu đi lấy chồng khác, cả xóm biết. Chuyện bà làm mọi cách để chứng minh có thể sống một mình được, Nhàn biết. Bà bửa củi, xỏ kim, tự đánh gió mỗi khi cảm cúm. Trong cái dáng bà bưng thúng gạo è è nhấc chân qua ngạch cửa là một lời tuyên bố dõng dạc, bà già này còn khỏe lắm. Có lảo đảo làm rơi thúng chẳng qua là “trơn quá nên vuột tay”. Củi để lại dằm trên tay mưng mủ thì “sơ sẩy chút thôi, mai mốt lại lành”, và luồn chỉ qua kim có hơi trầy trật hàng giờ chẳng qua “mắt không tỏ vì bụi vướng vô”. Chứng minh cho việc xoay xở lấy là chuyện nhỏ, bà già lấy thuốc nhỏ mắt, không may cầm nhầm chai dầu mù u.  
Nhưng đây không phải là câu chuyện nghĩa tình dù bà mẹ chồng hay xua cô con dâu đi, “Luẩn quẩn với má hoài thì con chết già...”, dù chiều ấy bà kêu Nhàn ăn cơm xong bây cứ ra hội chợ chơi, kệ má, ho hen chút đỉnh nhằm nhò gì… Giọng bà quả quyết như thể mấy viên thuốc đã xử lý gọn cái phổi cau có kia. Mà thật, cơn ho bỗng dưng dịu lại.         
Nhàn ngờ là bà má cố nhịn, quả thật, khi Nhàn qua khỏi cái miếu thổ thần ở góc đất, những tràng ho mới bục ra. Bà tưởng Nhàn đã đi xa nên ho cho đã.  
Lúc Nhàn về vẫn chưa khuya lắm. Tiếng ho của bà má nhòe lẫn trong những âm thanh náo động của hội chợ, gió và bóng tối làm Nhàn bị ảo giác mình vẫn chưa đi đến cuộc hẹn hò, đâu đó vẫn có người đang đợi. Chỉ cọng rơm vướng trên cổ áo, những tê mê giữa hai ngón chân cái nhắc Nhàn những cú ôm sâu đã từng có, đã từng trôi qua. Anh nói không quay lại nữa, nhưng Nhàn có thể tìm anh nếu muốn, miễn là đừng lâu quá.  
Nhàn nói dạo này má yếu nhiều, có bữa đi xuống bếp mà phải vịn lần vách, tưởng Nhàn không thấy. Bà già đó giờ đang cố nín ho khi nghe tiếng chân con dâu lẹp xẹp qua cửa nhà. 
Cách một vách buồng, Nhàn không nghe được bà già thở hắt ra, nhẹ cả người. Có cái mánh nhỏ đem ra xài hoài mà vẫn giữ con nhỏ ở lại với mình. Đối phó với những người tử tế, sao mà dễ.  
Mai lại ho bữa nữa, vì hội chợ chưa nhổ sào.

Nguyễn Ngọc Tư

Trong mùa mặt rụng


Họ nói ở đây không có Mỹ Xuyên nào, Mèo Ngố lại càng không, chỉ có Lolita, Juliet, Esmeralda, Mecghi… Anh chỉ cái cô đứng ở góc kia, chỗ bàn nhậu bốn người hói đầu đó đó. Họ gật gù, à, chắc anh đang nói tới Carmen. Nhưng gái đấy đang phải trực phục vụ bàn ấy rồi. Hay là chúng tôi gọi Scarlett  O’hara cho anh, cũng trạc tuổi ấy, đẹp và khéo chiều lắm.

Không, anh chỉ muốn gọi Carmen. Đứa con gái mặc cái áo cổ trễ, khuôn ngực phồng lên như muốn chui khỏi lớp vải chật căng, như bưng ra đặt trước mặt tụi đàn ông nheo nhóc. Tóc nó bới cao để lộ cái cổ ngẳng ngọt ngào. Mặt tô lên một lớp phấn dày son đỏ như môi đang cháy, khi con nhỏ vòng qua để xoa vai cho một gã khách, anh nghe lửa tạt qua mặt mình vì cái váy quá ngắn kia không thấm tháp vào đâu so với đôi chân mảnh khảnh dài.

Chính những đôi chân cao và cổ muốt đã làm cho Hồng Hạc nổi tiếng. Quán bài trí lòe loẹt, món ăn không đặc sắc, rớ tới gì cũng đắt đỏ, nhưng những cô gái phục vụ bàn thì trẻ đẹp không chê được. Bữa nhậu ở đây luôn là hội hè của những rảnh sâu mà đám đàn ông ai cũng biết là chúng sẽ dẫn về đâu đó đâu đó đâu đó đâu đó đâu đó...

Nhưng anh tới Hồng Hạc chỉ vì Carmen, mà mười chín năm qua anh hay gọi là Mèo Còi, Mèo Ngố. Nó kia, nhơ nhởn phớt lờ, không có vẻ gì để ý tới anh. Định bụng sẽ chờ nó trong một sự nhã nhặn mót máy được suốt mấy chục năm làm thư ký tòa dân sự, nhưng khi con nhỏ ngồi lên đùi gã duy nhất còn tóc ở bàn nhậu bên kia thì anh nhịn hết nổi, lồng lên xáp lại lôi xểnh nó ra đường. Cả quán nhao lên. Vài gã bảo vệ định sấn vào, nhưng con nhỏ đã ra hiệu nó tự lo được.

Về, về mau, hư trời ơi hư thân tới nước này. Anh lắp bắp, từ ngữ nghẽn ở chỗ cổ họng bỗng phun xối xả như vỡ đập. Sau mỗi gầm ghè cổ tay con nhỏ lại bị xiết chặt hơn một chút. Thấp thoáng những cái quay đầu tò mò từ dòng xe cuồn cuộn cắt chéo qua ngã tư Hạnh Phước. Hoặc vì váy áo của Carmen nổi bật quá, hoặc vì anh lôi xểnh đi nom cục súc thô lỗ khó coi.

Sau này anh nhớ cái cảnh mình kéo con nhỏ đi như kéo một con trâu chứng và nói với nó đây đâu phải là gương mặt mày, có cảm giác chữ mày mới làm xương cổ tay nó nát vụn. Con nhỏ không dục dặc trì níu lại nữa, nó nói nhỏ nhẹ trong khi bàn tay nắm của anh bắt đầu có cảm giác lỏng ra, trơn chuội.

- Ông nghĩ mặt nào mới là mặt của tôi?

Anh nheo mắt vì chiếc xe hơi quanh qua cua pha chói ngang tầm nhìn. Khoảnh khắc đó anh nhìn thấy một đứa bé con gầy cắt tóc búp bê, mũi dãi chảy lòng thòng đứng dán vào cửa lớp mầm non để chờ anh tới đón. Một con bé bịu xịu, mắt đầy nước ngồi mãi bên cạnh chó con kêu thảm vì nhớ mẹ. Một con nhỏ chừng mười bốn tuổi đen nhẻm tóc buộc nhỏng mặt đầm đìa mồ hôi lả vào tay anh ngay sau vạch đích một cuộc chạy việt dã. Một con nhỏ hơ hãi méc ba ơi có thằng lớp bên cứ viết thơ nói nhớ con hoài. Con nhỏ ấy chào đón tuổi mười bảy của mình bằng một công việc làm thêm: đứng ở ngã tư phát tờ rơi “để kiếm tiền mua đồ đẹp bằng chính sức của mình”. Mặt che kín bởi cái khẩu trang chống bụi, con nhỏ gần như chỉ lộ mỗi cái trán dồ ương bướng, nhưng rạo rực vì những trải nghiệm mới. “Nếu ai cũng đều che mặt lại, thì làm sao để nhận ra  nhau  ?”, nó hỏi, sau lần chìa tờ rơi cho anh mà ba nó hoàn toàn không hay đây là con gái của mình. Có bữa nó thử ghẹo một ông trung niên lạ hoắc, kêu “sao anh nói là anh chết vợ?”. “Bà vợ ổng nghiến răng trèo trẹo và nhéo hông ông chồng khi đèn đỏ còn chưa chuyển sang xanh”, con nhỏ kể lại, cười toe khoái chí. Nắng gió ngoài đường đã làm phai mất những đường gân xanh trên gương mặt mộc của nó. Một bữa khi đứng ở ngã ba phát quãng cáo cho một đại nhạc hội, nó đã nhìn thấy thằng bồ mình thắm thiết cùng với cô gái khác. Con nhỏ về vùi mình vào đống chăn gối khóc như mưa bấc, bảo không tin vào đàn ông nữa. Anh nhớ mình đã cười xòa bảo, ôi trời, “đừng quơ đũa cả nắm, ba đâu  phải loại đó…”. Con bé thừa nhận, đúng rồi, ba không giống họ… Vài vì sao lại nhảy nhót trong mắt nó.

Giờ những ngọn đèn đường, đèn pha của xe cộ lũ lượt qua ngã tư Hạnh Phước cũng không thắp nổi trong mắt con nhỏ một tí ánh sáng nào. Cái ánh sáng bên trong đã mất, mắt sâu và tối hun hút. Trong một khoảnh khắc anh biết không thể mang những gương mặt trong veo kia trở về, không gương mặt nào mà anh từng biết hợp với nhân dáng đàn bà chín rục này, váy áo mời mọc này. Anh hơi tuyệt vọng, nhưng vẫn nắm tay nó. Cứ sợ bỏ ra lần này là vĩnh viễn mất.

- Về đi, coi như ba năn nỉ…

Con bé cười khẩy, mặt mũi chua chát. Anh thấy rõ ràng là mắt nó hướng về mình, nhưng ánh nhìn lại xuyên thấu mênh mang như không gặp rào cản nào từ gương mặt của anh (lởm chởm râu ria, tái dại đi vì lo lắng và tức giận) đang chắn ở đó.

Cái nhìn xuất hiện lần đầu vào tối hai mươi ba tháng mười hai, cả xóm người ta mở nhạc giáng sinh, các cửa hiệu trang hoàng rực rỡ. Con nhỏ thức khuya đợi anh ngoài cỗng khi, lầm lì hỏi ba để mặt rớt ở đâu rồi, con không thấy? Anh sững sờ không biết mình phải nói gì với nó, những câu đã sắp sẵn trên đường về, dùng từ nào cho hợp, phải tránh né từ nào… tất cả chúng đã mọc cánh bay đi. Anh vẫn thấy mặt mình khi đi ngang qua tấm kiếng trên cánh cửa tủ, và chị vợ anh dù ngái ngủ vẫn hỏi nhậu về sao thấy buồn xo vậy? Chó Tiểu Phù xoay tròn khuấy đuôi mừng, và sáng hôm sau khi tới gần chuồng chim cu gáy nó vẫn gục gặc gáy chào. Riêng có đứa con gái nghĩ anh không còn mặt nữa.

Chỉ còn đâu đây cái thân người dềnh dàng của anh mà mỗi sáng đứa con gái phải lách qua nếu muốn đi vào bếp. Nhà hẹp, đôi khi vẫn còn những va chạm để anh tin rằng mình vẫn còn một phần cơ thể. Chỉ mặt là vô tăm tích. Con nhỏ không còn ríu ran ba ba con con. Mái tóc dài mà anh rất ưa nó đã xén trụi đi, ống quần jean cũng bị xén lửng lơ trên  đầu gối, và công cuộc xén bắt đầu lân la đến áo. Dắt xe ra cửa nó chỉ chào thưa mẹ con đi. Nó không nhìn anh, nếu có thì ánh nhìn xa như anh đang tàng hình, cuối điểm nhìn là đâu đó sau gáy anh. Tấm hình cả nhà chụp chung trước vẫn đặt trên bàn học giờ úp mặt trong xó tủ, chung với những món đồ mà anh đã tự tay mua cho con nhỏ. Lá rụng nghẹt ống nước máng xối, tự nó trèo lên thông dù anh cũng đang quanh quẩn trong nhà. Trong vốn liếng ngôn ngữ tiếng Việt lẫn tiếng Anh học ở trường lẫn tiếng Nam Hàn học trong phim nhiều tập của con nhỏ bay mất chữ ba, hay papa hay appa.

Thỉnh thoảng nghe một giọng nói lanh lảnh cất lên từ nhà ngoài “ông lão ơi, cái quần cộc của ông rách rồi, “lù coi” cho coi”, “Ngố mua cái bàn chải đánh răng mới rồi đó, màu xanh dương, ông lão nhớ lấy xài nghen…”, anh biết mình vừa ảo giác. Một thứ ảo giác khiến người ta muốn rơi nước mắt, muốn cầm giữ mãi, muốn chìm vào đó.

Vợ anh hỏi hai cha con có chuyện gì, mặt dúi dụi vào cuốn giáo án năm nào cũng ngồi chép đi chép lại. Chị bận rộn vật lộn với đám học trò, với những cơn hen cấp từ trước khi sinh, không hay gần gũi với con bé vì hay mệt. Nhưng chị cũng nhận thấy không khí trong nhà sánh đặc. Anh cố cười bảo có chuyện gì đâu, cố nhớ lần gần nhất vợ nhìn thẳng vào mặt mình là lúc nào. Có phải chị cũng nghĩ là anh đã đánh rơi mất mặt? Chị, chó Tiểu Phù và chim cu gáy có phải chỉ nhận ra anh bằng mùi, hơi thở, dáng điệu, thân người…

Có thể mặt mình mất thật rồi, tự dưng anh nghĩ vậy. Con gái ít nhiều đã thuyết phục được anh. Nó ngày mỗi vắng. Thấp thỏm với một tâm can bị phơi bày, anh cũng tránh đụng mặt nó. Tối qua vợ anh hớt hãi nói Mèo ngố ba bữa rày không thấy đâu. Mọi khi nó có đi làm thêm thì tối vẫn về nhà ngủ chớ. Chị sẽ lên cơn suyễn cấp nếu biết anh vừa mới tìm thấy nó, đã nắm được nó và rồi lại lỏng tay ra. “Sao ba không đi tìm mặt của mình, trước hết?”, nó nói trước khi trở gót.

Trên đường về anh ghé qua một căn nhà trọ ở trong hẻm Lò Tương. Một người phụ nữ khi mở cửa cho anh đã không giấu được chán chường, “đã nói mặt mày ủ ê thì đừng có ghé đây mà”. Anh không trả lời, lặng lẽ vén mùng vùi mặt vào bụng thằng bé con đang ngủ. Nó càu nhàu trở mình, quắp con gấu bông quay vô vách. Con gấu này là quà anh tặng cho thằng bé vào dịp Noel trước. Hôm đó ông già Noel lắc chuông giao quà tận nhà, bộ râu giả che nửa mặt, bụng độn to khệnh khạng, nhưng ông già không chúc thằng nhỏ ngoan, học giỏi mà cứ đứng đực ra nhìn cha con anh rồi bỏ đi một nước. Anh lạnh người nhận ra đôi mắt của ông già Noel sao mà quen, và tiếng chiếc xe máy cà tàng đó, hình như ngày nào cũng nổ giòn trước cỗng nhà anh, sau cuộn khói có một tiếng nói lanh lảnh, “ông lão ơi đóng cỗng giùm con…”.

Anh dáo dác nhìn quanh căn phòng mà trước đây anh thường đến ở vào giờ nghỉ trưa, cả khi thằng bé kia chưa ra đời. Gương mặt anh đã bị rơi trong căn phòng này vào cái đêm Noel ấy. Thỉnh thoảng anh lại nhìn thấy nó nằm chỏng chơ trên đất, nhưng chạm tay vào chỉ là những vụn bụi.

Nguyễn Ngọc Tư

Coi tay vào sáng mưa


Người đó đến nhà và mang bàn tay xòe ngửa trước mặt bà. Nghe nói cô Năm Nguyệt giỏi coi tay, vậy đọc giùm thằng đàn em tôi vận số này. Anh ta vừa nói vừa giắt tiền quẻ lên đĩa trái cây đặt ở bàn thờ Phật. Bắp tay xăm bò cạp của người đó săn cuộn khi cắm phập cây dao nhỏ xuống mặt bàn gỗ, cán rung lật bật, như xiên qua bất cứ lời từ chối nào. Cô bỏ nghề cũng đã lâu. Người ta không còn nườm nượp lui tới để hỏi coi đời mình rủi hay may. Khách sáng nay bất chấp.
Cửa nhà vẫn mở, mưa xiên li ti lên đôi dép xỏ ngón bẩn thỉu của khách, nhưng bà thầy bị cầm tù vào bàn tay đang chìa ra kia. Bàn tay tái xanh và lạnh, từng ngón như sắp rã ra, bật lên cái bớt đỏ trên cổ tay, như vết đứt mở miệng. Nó thôi miên bà, để mặc điện thoại bàn kêu ré lên từng hồi rồi tắt lịm đi trong mòn mỏi. Chuông tạnh, nghe có tiếng thằn lằn rơi phịch xuống.
- Lần nào coi tay cho người ta cô cũng khóc như vầy sao. Cũng lạ à nghen. Bao nhiêu nước mắt cho đủ? - Người đó cười khủng khỉnh, như đang coi một vở kịch vụng về - Thằng đàn em tôi linh thiệt, nó nói thế nào bả cũng khóc lóc.

Bà đã tìm kiếm, mong được gặp lại từ những vị khách bước vào nhà mình một bàn tay giống hệt như vầy. Cái bớt đỏ ở cổ tay, và lóng cuối cùng của ngón út bị gù do lần nọ bị đứt sâu, bó bằng vải xé ra từ vạt áo cũ, không nẹp nên cong queo khi liền sẹo. Ngón trỏ bà di theo những đường chỉ tay đứt quãng, nghe cái lạnh của bàn tay kia ngấu vào người. Những vết chai trên ấy rắn đanh như đá. Không phải bàn tay của kẻ vẽ tranh. Bà ước mình đoán sai. Không phải chủ nhân của bàn tay kia thuở nhỏ chịu cảnh nghèo, nó muốn một hộp bút chì màu mà bị bà mẹ từ chối. Không phải người ấy bị lạc mẹ hồi tám tuổi, chịu trôi nổi giữa đời.
Sao nó trở lại, bằng cách này?!
Chẳng còn nhớ đây là bàn tay thứ bao nhiêu được bà cầm lên săm soi để dò đoán cuộc đời của chủ nhân nó, kể từ lúc bà lục lọi được trong tủ sách của ông nội mình bộ mười ba quyển Thuật pháp nhân tướng học. Con bé mười sáu tuổi nhận ra mọi bộ phận trên cơ thể đều biết nói, đều có ý nghĩa trong cuộc đời. Rủi hay may, suôn sẻ hay truân chuyên đều hiện lên ở từng chi tiết nhỏ. Tóc nói mũi nói đuôi mày nói, vành tai nói, nếu ta biết cách đọc. Bàn tay không chỉ để nắm tay mà phơi bày số mệnh. Ông nội bà đã phạm sai lầm vì đã không đốt hết bộ sách ấy trước khi cháu gái mình trở thành thầy bói lẫy lừng.  
- Con ơi, để lộ cơ trời thì trời có tha cho không?
Câu nói đó ông già nhắc đi nhắc lại, nhưng bà đã để lọt qua tai kia bởi ngây ngất với cái quyền lực mà mình đang có : một vị thánh ở giữa các cõi làm sứ giả của trời, đọc những dấu hiệu giúp nhiều tín đồ mê mụ biết trước tương lai. Bất hạnh mà bà gặp trong đời đều có lý do. Bà lấy phải một tay thợ mộc nghiện rượu vì không coi lấy chồng là quan trọng, chỉ cần mượn giống để kiếm đứa con. Bà muộn con là do tinh trùng của chồng xỉn hết, làm gì có thứ gì ngâm trong rượu mà còn sống. Bà nghèo bởi mải mê làm phước giúp đời.
Một ngày bà về sụp lạy trước mộ ông nội mình, nói con tin có trời rồi. Đứa con mà bà chắt chiu cầu khẩn trước bao nhiêu đền đài bị lạc mất ở chợ Sương. Thằng bé giảy nảy đòi hộp bút màu, một thứ không ăn được. Với bà hồi ấy, bất cứ gì không ăn được đều không quan trọng. Nhà dột mới quan trọng. Chạy gạo bữa mai mới quan trọng. Vẽ lên giấy những ảnh hình sặc sỡ thì có vẻ xa xỉ quá. Bà kệ nó ngồi bệt ăn vạ ở một góc chợ, cho nó sợ. Tin rằng nếu mình quả quyết không ngoái lại, thằng nhỏ sẽ ngoan ngoãn vì nỗi sợ hãi bị bỏ rơi. Trong lúc tìm một chỗ khuất để dõi theo đứa bé, có người chặn lại nói cô Năm coi giùm tôi một quẻ. Mãi đi theo những đường chỉ tay như mê lộ, lúc bà sực nhớ tới con thì nó không còn ở đó nữa.
Những người có mặt ở chợ trưa ấy đều hỏi bà làm mẹ kiểu gì vậy, người chồng say xỉn cũng hỏi câu ấy trong lúc giáng nắm đấm đánh gãy hai cái răng bà trước khi bỏ nhà đi.  Điền thông tin gửi các báo đăng trên mục tìm người, bà miêu tả tỉ mỉ chi tiết đặc điểm của gương mặt, bàn tay, vị trí nốt ruồi trên người thằng bé vì đã thuộc lòng ngay từ khi mới đẻ, nhưng vẫn tuyệt vọng vì không nhớ quần áo con mặc hôm đó. Quần có thể ghi xám, nhưng cũng có thể nâu. Hoặc là ghi xám nhưng bị mưa ướt nên ngã nâu. Áo kẻ trắng xanh, trên túi thêu một con gà con hoặc hai con thỏ, hoặc là logo nhỏ của một đội bóng đá nổi tiếng nào đó. Chắc là vì những chi tiết mù mờ mà những lời rao không có hồi đáp nào vọng lại.
Cái thứ bà nhớ nhất, là chỉ tay của thằng nhỏ. Thứ đó tòa báo không coi là thông tin được in. Bà tự huyễn hoặc mình thêm lần nữa, bàn tay trở về sáng nay không phải bàn tay mình đã nắm ở chợ Sương năm ấy. Nó có khổ rộng gấp ba, chi chít sẹo. Nó nói bà ơi tôi đã chịu cơ cực lắm, từ hồi bà rời bỏ.
Trong tháng ngày bàn tay này phiêu bạt, bà nắm những bàn tay khác và không chịu được cái ý nghĩ mình níu tay người dưng đây mà buông bỏ máu thịt của mình, bà bỏ nghề. Nhưng không buông hy vọng. Lần gần nhất khi gửi lời gọi con lên chương trình truyền hình Như chưa từng xa cách, bà nhận được khá nhiều cuộc gọi đến nhà nói rằng có thể đã từng nhìn thấy đứa trẻ kia.
Chủ nhân của bàn tay mà bà đang ngây dại rờ rẫm đây chắc cũng xem được chương trình ấy. Nên theo dấu bà mà gửi tay về. Chắc cái vết cấn sâu trong trí nhớ ấu thơ của nó duy nhất chỉ hình ảnh mẹ đã buông tay bỏ mặc mình ở góc chợ. Mẹ đi thẳng, không ngoái lại.
Bà thầy từng nghĩ nếu có thể cải sửa cái hình ảnh sau cùng đó của mình - một bà mẹ nhẫn tâm - bà đổi mạng cũng đành. Điều đó là không thể, bà thật sự tuyệt vọng. Mưa tạnh, có mấy giọt nước rơi trên cúc áo người đàn bà. Ti vi nhà hàng xóm đang phát bản tin hôm qua các băng nhóm tội ác thanh trừng nhau ở tận bệnh viện, một người bị mã tấu chặt đứt tay trái, giá xăng tăng, một làng chài khỏa thân biểu tình đòi lại những chiếc tàu đánh cá bị bọn Lạ cướp mất. Người đó sốt ruột ngó lên vách. Bà không chắc anh ta nhìn đồng hồ hay cái ảnh đen trắng chụp cận mặt một thằng bé sún răng cười toe treo gần đấy. Bà không nhìn mặt khách một lần nào, biết chắc chắn không phải nó.
- Đàn em tôi dặn hỏi kỹ, nó hỏi có phải vào tù nhiều lần không, hay chỉ ở một lần dài cho tới chết ? À, nó còn hỏi nếu chẳng may bị kêu án tử, thì nó sẽ bị bắn hay tiêm thuốc độc?
Sau mỗi câu hỏi, bà thầy cảm giác mình vừa bị phạt một nhát. Rúm ró. Người đó khủng khỉnh cười, rút con dao ra khỏi mặt bàn chảy máu, đi ra cửa, và nói ngoái vào “Cô Năm  từ từ mà coi cho kỹ, tôi đói rồi, chờ không nổi. À, đàn em tôi dặn cô cứ giữ, nó không cần nữa. Lìa thì cũng đã lìa rồi”.
Bàn tay vẫn còn nằm lại trên mặt bàn trầy xước. Bàn tay để ngửa. Cụt đến nửa ống. Vô nghĩa biết bao một bàn tay không còn cầm nắm được. Bà thầy bói già kêu con ơi, níu mãi bàn tay xanh xao đó.

Nguyễn Ngọc Tư

Tắm sông


Vậy là má không cho tôi tắm sông nữa. Má nói, má coi truyền hình, người ta biểu, nước sông bây giờ ô nhiễm lắm, trẻ nít tắm hư mắt. Tôi hỏi ô nhiễm là gì, má tôi nói dơ. "Một chút thôi mà - tôi cố nài nỉ - có chút xíu thôi". Má tôi dứt khoát, không là không.
Tôi chê lý do của má đưa ra lãng xẹt, chỉ vậy mà bắt hỏng cho tắm sông nữa. Buồn muốn chết. Những chiều ra đồng chạy rong chạy ruổi thả diều về, nực thôi là nực, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, xách cái gàu ra ngoài cầu ao xối sàn sạt mà không thấy mát tí nào, thèm nhảy ùm cái xuống sông, sải tay sải chân vẫy vùng cho sướng người.
Tôi biết lội hồi sáu tuổi. Hôm đầu tiên xuống nước, tôi ở truồng ngủng ngẳng cái cu bằng trái ớt. Ba ôm tôi xuống bến, ông đặt bàn tay to bè lên cái bụng tròn ủm của tôi sướng quá, tay chân luýnh quýnh đạp lia lịa làm nước văng sáng tran mặt ba tôi (nước mát thì thôi dị chớ). Má tôi ngồi trên bờ hái đọt choại vừa ngó xuống, kêu:
- Anh khéo, ngộp con nó...
Ba cười to:
- Em đừng lo. Mai mốt thằng nầy lặn ngụp phải biết.
Chỉ năm hôm sau, khi ba tôi lặng lẽ bỏ bàn tay ra, tôi đã lủm bủm lội được một tí đường. Cái đầu tôi ngoi lên còn cái mông chìm lỉm, ba cười, chê: "Cái thằng bơi y hệt con chó phèn". Nhưng đám bạn cùng lứa của tôi đang ngồi so bì, "Sao tao ôm dừa khô tập hoài mà hông biết lội". Tôi tài khôn, "Mầy bắt chuồn chuồn cho nó cắn rún á, biết lội liền hà". Nó tưởng thiệt, đi bắt chuồn chuồn về cho cắn muốn tiêu cái rúng luôn. Vậy mà tôi cố đổ thừa, "Tại mầy hỏng bắt chuồn chuồn đỏ, chuồn chuồn đỏ cắn rún mới biết lội được". Sau nầy nhớ lại, tôi nghĩ nhất định mình bơi giỏi là nhờ bàn tay ấm nóng của ba đã truyền cho tôi lòng dũng cảm và sức mạnh. Ba nói, con nít ở vùng sông nước mà không biết bơi thì tội nghiệp, xuống bến trợt chân, qua cầu gãy ván... Bất trắc không biết chừng.

Ai chớ tôi thì ba tôi khỏi lo. Đi học về, vừa cất cái cặp đã nhảy um xuống sông. Tụi bạn phục lăn cái tài lặn dài hơi. Còn về khoản lội đua, mỗi con Én là dám so kè với tôi, trời đất ơi, con gái gì mà lội thoi thót như con ếch, lẹ ghê. Mà cũng tại nó cao, chân dài, tay dài, nó sải một nhịp, tôi đã lọt lại phía sau. Vừa rồi, tôi với nó bơi thi, hỏng hiểu sao tôi lúm súm thế nào mà để nó qua bờ bên kia trước, nó bắt tôi kêu nó bằng chị hai, thấy tức chết.
Thằng tèo bênh vực tôi, nó an ủi, "Mai mốt trả thù, hén mậy?" Tội nghiệp, nó thần tượng tôi từ cái năm sáu tuổi tới giờ. Tôi hứa, mai mốt trả thù. Nhưng từ má tôi cấm ngặt, coi như không còn cơ hội nữa. Sông với tôi có biết bao nhiêu là chuyện với nhau, bây giờ biểu không tắm nữa, buồn ơi là buồn vậy.
Ngày xưa đúng là sông không như bây giờ. Nước sông không như bây giờ. Nước sông mát. Nước không trong như trong sách người ta hay tả mà cợn phù sa. Xứ tôi là xứ phù sa mà. Sông có mùi thơm hơi ngòn ngọt của bẹ dừa nước mọc chồm chồm ra ngoài bãi. Nước lớn, cá kìm kìm lội thành đàn nhộn nhịp. Nước ròng sát bãi, tụi tôi chạy rượt với đám ca thồi lồi. Hồi đó, đất sình dưới đáy sông chúng tôi chọi nhau cũng thơm, nên mặt mũi tèm lem bùn mà không thèm để ý, có đứa bị chọi nguyên một cục sình vô miệng, trợn trừng không nói được tiếng nào.
Từ từ, sông ngầu đục hẳn đi. Cứ nước lớn, mặt sông đầy rác. Mới đầu, tụi tôi thích lắm, tụi tôi vớt được bao nhiêu là chai lọ, tha hồ nuôi cá lia thia. Con Én coi tay chân quều quào vậy chớ siêng, nó vớt được bao nhiêu là đồ chơi cúng cuội. Rồi tụi tôi cũng chán trò chai lọ, mặc kệ chúng, dưới sông trôi đày kia kìa. Tôi hỏi ba tôi rác đâu mà nhiều vậy, ba nói là do người ở chợ hay đổ rác xuống sông. Tôi gật gù, ờ phải, ở chợ người ta đông lắm.
Trong đám bạn, tôi biết chợ nhiều nhất. Nhà tôi có cái quán cóc nhỏ bán bánh kẹo, đồ chơi con nít. Mỗi lần đi chợ đổ hàng, má đều chở tôi theo. Ra ngoài đó, má lên chợ, tôi dom chừng chiếc xuồng. Sau nầy tôi thêm một nhiệm vụ nữa là gỡ rác quấn chân vịt máy. Rác nhiều quá, cứ đi được một chút nghe cái máy chạy rị mọ, biết thế nào chân vịt cũng bị quấn rác rồi. Một ngày nọ, tự nhiên tôi nghĩ, mình gỡ ra rồi quăng xuống, thế nào nó cũng vướn vo mấy chiếc xuồng khác, tội nghiệp người ta ghê lắm. Tôi lẳng lặng giở cía sạp xuồng lên, bỏ mớ rác vào đó. Má tôi rầy, "rác rưởi mà để vô xuồng chi con, dơ hết". Tôi nghi! sao thưa vậy. Má tôi cười, không nói gì nhưng vẻ mặt rất hài lòng. Hôm đó, về tới nhà, được hai thúng rác đầy vun. Tôi bưng lên nhà, ba như không giận nó đã quăng con mèo chết xuống. Tụi tôi tự nhủ, bữa nay tắm lần này nữa thôi, tui tôi chờ cho tới chừng nào sông sạch, trong trở lại. Tôi lén nhìn con Én, lặng sải tay bơi một mạch qua bờ bên kia, "Mai mốt thể nào cũng trả thù chớ con trai mà để thua con gái, kỳ lắm".

Nguyễn Ngọc Tư

Người mẹ vườn cau


Đề bài làm văn chỉ hai chữ "Người mẹ". Cô Hương bảo "Bình luận, chứng minh, hay miêu tả cách nào cũng được". Tôi cắn bút, nghĩ mãi bắt đầu như thế nào nhỉ?
Ba tôi có rất nhiều mẹ, tôi cũng có lắm bà Nội ở nhà cùng chú út. Nội ở Phố Đông, Nội ở vườn cau, Nội nào cũng già như nhau. Tôi nhớ khi còn nhỏ, ba dẫn về thăm Nội vườn cau. Hôm đó, mưa nhiều, con đường từ dưới bến lên nhà, đất bùn lẹp nhẹp, tôi ngã oàng oạch. Nhà Nội nhỏ xíu, mái lá đột tong tong. Đón ba, Nội gầy gò, cười phô cả lợi.

- Má tưởng con không về được, mưa gió tối trời vầy khéo cảm.
Bà vuốt đầu tôi.
- Tiên tổ mầy, sao mà giống cha quá vậy?
Hôm ấy bà giỗ chú Sơn. Trên cái bàn thờ con con thấp lè tè kia đến ba chiếc lư đồng, cái nào cũng nghi ngút khói. Bữa giỗ chỉ vài ba bác canh chua cá rô đồng, mắm kho, bông súng. Chưa bao giờ tôi được ăn lại nghe ngon như thế. Ba gắp thức ăn cho bà, bà gắp thức ăn cho tôi, đôn hậu bảo.
- Ăn cho mau lớn, con.
Tạnh mưa, mọi người lục đục đến, họ kéo gàu xối ào ào ngoài hiên nước. Ai cũng gọi nội bằng Má, "Má Tư". "Má Tư" ơi ới. Tôi hỏi:
- Ba ơi, sao nội đông con quá vậy?
Ba cười bảo:
- Tối, ba kể con nghe.
Một chú quần vo tới gối, tay cầm lồng vỗ vai ba cười ha hả.
- Tao biết chú mày về nên đem thịt rắn qua đây, tụi mình lai rai.
Rồi chú quay lại:
- Má ơi, cho tụi con vui một bữa với thằng Sơn nghen.
Bà Nội quấn lại cái khăn sờn lên tóc.
- Rồi vợ mày chạy lại méc má cho mầy coi.
Nội ôm tôi vào lòng, ngồi trên võng bố đưa kèn kẹt.  Các chú thỉnh thoảng lại cười vang.  Nội cũng cười, trông Nội vui lắm, cái vui như thức dậy sau đêm dài vươn mình ngắm bình minh.  Ba tôi cùng các chú nói chuyện huyên thuyên, toàn là chuyện ngày xưa.  Chú Biểu quần vo tới gối, uống rượu tòn tọt, cười khà:
-  Tưởng đâu lũ mày quên Má, quên hết tụi tao.
Ba tôi lúc lắc đầu, ông rót ba ly rượu cúng trên bàn thờ quay lại hỏi:
- Bát hương em Châu, bên chồng rước về hở má?
- Ừ, bên nhà sui bảo, cho chúng nó có đôi.
Bà nội dẫn tôi ra vườn, cái nắng sau mưa nồng ngả vàng pha sắc đỏ, những giọt nước còn đọng lại trên tán lá non.  Ở đây cái gì cũng chín, từ trái mít, trái đu đủ, trái chanh, đến cả buồng cau.  Trái chín đỏ lừ bên hông cau trắng muốt, tóc Nội cũng trắng phau phau, bà nắm tay tôi, bàn tay bà nhăn nheo, gân guốc.  Đêm hôm ấy bà mắc mùng cho tôi ngủ, giường lạ ngủ không được.  Ba kể hồi trước, ba cùng hai chú ở trên bàn thờ là đồng chí của nhau, các chú ấy hiên ngang và anh dũng lắm, ba bảo Nội là một bà mẹ anh hùng.  Tôi hơi bất ngờ, lẽ ra anh hùng phải là cao to, đẹp khỏe chứ!
- Vậy Nội có súng không ba?
- Nội bán ve chai.
- Bán ve chai cũng là anh hùng hở ba?
- Ừ Nội gánh giỏ đi đầu làng cuối xóm.  Nội đưa thư cho ba, Nội mang thức ăn, tin tức.
Ba vuốt đầu tôi, cái tay nặng chịch.
- Giá mà các chú ấy còn sống, bây giờ Nội đã có cháu, đâu phải sống một mình.
Tôi nghe gai gai người, nhớ cái dáng còm cõi, nụ cười phúc hậu, đôi mắt già nua nheo nheo.  Trông ra ngoài, thấy bóng còng còn in trên vách, tôi nhổm dậy, "con ra ngủ với bà nghe ba".
Ba tôi chuyển công tác lên tỉnh, nhà tôi dọn về phố khác.  Mẹ nhắc ba:

- Lâu rồi, anh không về thăm má "vườn cau".
- Ôi dào, má ở dưới, mấy anh dưới lo.
Một hôm, chú Biểu đến nhà, chú mang theo xâu ếch dài thiệt dài, bỗ bã:
- Cái này má gởi cho mày, má biểu phải đem đến tận nhà.  Mấy giổ mày không về, má nhớ mày lắm.  Sáng hôm qua má còn khoe vừa gặp mày trên vô tuyến.
Rồi chú lắc đầu:
- Lũ mày bạc làm sao đâu.
Tối đó mưa xập xoài rả rích, ba tôi chong đèn ngồi rít thuốc, mẹ hỏi, ba bảo - "Uống rượu, ngủ không được"
Món thịt ếch đầu mùa lịm trong lưỡi làm ba đau nhói. Ba rủ tôi.
- Mai về Nội vườn cau, con ha?
Chẳng biết chốn ấy còn chín lừ quả ngọt, hương cau còn nồng nàn trắng xoá một góc trời, tóc Nội chắc bạc nhiều hơn.  Lúc tôi về, thế nào bà cũng giúi cho tôi nhiều quả chín mang về biếu mẹ, xâu ếch biếu ba.  Thứ thức ăn mà không có hương vị cao lương nào thay thế được, dù bây giờ ba tôi xuống ngựa lên xe.
Bài văn được 4 điểm, lời phê cũng ngắn gọn như đề bài, "nghèo ý" tôi viết "Mẹ là người sinh ra em, nuôi em lớn, ngày thường mẹ nấu cơm em ăn, giặt đồ em mặc".  Bọn con Hải, Lam chọc ghẹo mãi, tôi chống chê - "làm sao viết vế mẹ bằng mấy dòng được, phải không?"

Nguyễn Ngọc Tư