Saturday, 29 September 2012

BÀI THƠ TÌNH NGẮN NHẤT

               Khi không ngồi nhớ người dưng,
  Người dưng nào biết người dưng  nhớ mình!
               .....    
                                                  29/9/2012
             HNN

Friday, 28 September 2012

THƠ TRÀ

Hôm nay 3Chai qua ÚtTrỗi, đọc được một bài thơ sưu tầm, kèm bản dịch rất sát nghĩa. Theo cách nói của anh VQN, xin “thuổng” về đây chia lại với các bạn.

Life is Like Making Tea
Boil Your Ego,
Evaporate Your Worries,
Dilute Your Sorrows,
Filter Your Mistakes
and
Get Taste of Happiness.

SỐNG NHƯ PHA TRÀ
Nấu sôi cái tôi
Bốc hơi điều lo lắng
Pha loãng những muộn phiền
Thanh lọc những lỗi lầm
  Và…
     Nếm hương vị hạnh phúc.

***

Người phương Tây thường uống trà túi lọc, có bỏ đường. Xin giới thiệu thêm một vài bài thơ tiếng Anh liên quan đến trà.

Bài sau đây tương truyền là của Eleanor Roosevelt hoặc Nancy Reagan:

A Woman is Like A Tea Bag
"A woman is like a tea bag:
you never know how strong she is
until she gets in hot water."

3Chai tạm dịch:
ĐÀN BÀ TRÀ LỌC
“Người đàn bà cũng như cái túi trà
Chưa gặp nước nóng ai mà đoán được
Cô ấy đậm đến đâu!”


Life is like having a cup of tea
Life is like having a cup of tea.
You sit by the side of the window, lift the cup and take a careless sip,
Only to realize, somebody forgot to put the sugar.
Too lazy to go for it you somehow struggle through the sugarless cup.
Until you discover un-dissolved sugar crystal sitting at the bottom…

CuỘc đỜi như uỐng ly trà
Cuộc đời như uống ly trà
Ngồi bên cửa sổ khề khà nhấp hương

(dịch đến đây thì 3Chai tịt, xin các bạn giúp tiếp tục)

***
Thứ Hai tới thì còn chưa biết ra sao. Nhưng hiện tại xin cứ chúc các bạn một sáng Thứ Bảy bốc hơi mọi lo lắng, pha loãng hết muộn phiền. 

Thursday, 27 September 2012

Mưa em một lần nữa

Bác Huỳnh Văn Úc vì cảm hứng với ca khúc "Mưa em" đã chuyển ngược ca từ của bài hát thành lời thơ. Một ý tưởng mới, xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

MƯA EM

Nắng tan dần rơi nhẹ trên phố say
Em về đây đón ngày mưa trở lại
Mưa dịu rơi trên tay em mềm mại
Ngày có em đời bỗng nhuộm hồng.

***
Mưa chạy theo em đôi gót chân trần
Mưa chạy theo em một vầng trăng sáng
Chẳng theo mùa nào nụ hôn ta đón
Ta đón ngày mưa vội vã em về.

***
Mưa đắm say trong tim người si mê
Mười ngón tay dài giọt mưa em hứng
Trong trái tim anh nhạc mưa say đắm
Nụ cười trên môi ta đón nhau về.

Huỳnh Văn Úc

Monday, 24 September 2012

Chuyện tình kể lại...


Sáng vừa cầm tờ báo
Là thấy: "vàng đang tăng"
Cuộc sống cứ xoay vòng
Những phồn vinh giả tạo.

Điên cuồng và bát nháo
Bao giả dối, lọc lừa
Những khuôn mặt âu lo,
Những tâm hồn chai sạn.

Rồi một lần cùng bạn
Đến thăm quán: Lộc Vàng
Gió Hồ tây mơn man
Kể chuyện tình ngày cũ...

Có một nàng thiếu nữ
Tuổi mười bảy trăng tròn
Yêu tiếng hát, điệu đàn
Của chàng trai mười chín.

Duyên tình vừa mới bén
Chàng bỗng bị bắt giam
Xử mười năm tội oan
Vì "hát tình ca" đấy!

Lòng nàng như lửa cháy
Quyết đợi chờ chàng trai
Ngậm ngùi tháng năm trôi
Đúng tám năm, nàng đợi.

Tháng năm dài mòn mỏi
Chàng gặp lại người tình
Hoàn cảnh thật khó khăn
Nàng bỏ nghề chạy chợ.

Họ thành chồng, nên vợ
Gắng đắp đổi qua ngày
Ai cũng ngỡ từ đây
Họ bên nhau hạnh phúc!

Những năm dài tủi cực
Bị tình yêu đẩy lùi
Về dĩ vãng xa xôi
Để niềm vui trở lại?

Cuộc đời thường ngang trái
Thử thách tấm chung tình
Chàng ca sỹ không tiền
Muốn bán nhà cứu vợ

Mười năm trời chạy chữa
Quẩn quanh trong đói nghèo
Chàng trả nợ tình yêu
Những gì mình đã nhận.

Nhưng thương ôi số phận
Đã bắt người ra đi
Ai oán và não nề
Người đàn ông khóc vợ.

Tôi biết gia đình họ
Không sống trong giàu sang
Chỉ tiếng hát, cây đàn
Ngợi ca tình chung thuỷ.

Cứ ấm nồng, âm ỉ
Ngọn lửa của tình người
Cháy lên giữa cuộc đời
Đầy bể dâu, sóng gió!

Saturday, 22 September 2012

ĐÀO ƠI!

              

              {  Còn lại hương vị Quế Lâm,
         Gửi Cho :Ai Đã-Từng-Chung Sống Cùng!}
                     
                       Hoa  đang độ rực màu trong gió,
                       Nhánh đào tươi đùa giỡn với Xuân.
                       Sao không để cho hoa được sống,
                       Đang tay Ta phá cuộc đời hoa,
                       Có đau không? Đau lắm lòng Ta!

          Ta nghe cành nức nở...!
          Ta nghe gió rít than...!
          Và kìa chim bàng hoàng...!
          Vì mất hoa tươi thắm.
          Đào ơi! Ta buồn lắm...!

                         Đã biết Em muốn sống với Đời.
                          Mà sao Ta tàn nhẫn dập vùi,
                          Một sự sống, một chồi  non khát sống.

           Chỉ vì quá yêu Em,
           Ta muốn lòng khỏi trống,
           Nên vô tình đã hại,
           Cả cuộc đời của hoa.

                            Bắt Em xa lá, xa cành,
                            Và xa cả chúng bạn Đào xinh.
                            Không thể thiếu tình thương,
                            Không Thể Sống!
                            Em héo rồi, Ta lại buồn hơn..!

            Cành vẫn còn nức nở...
            Gió vẫn cứ thét gào...
            Bay tận ở trời cao,
            Chim kêu buồn da diết...
   
                  Đào Ơi! Em Có Biết...!

                         Xuân   Quế  Lâm  1968

                                  HNN

Giữa bầy đàn


Quán chị cheo leo trên sườn núi, cạnh lối đi lên động Tiên Sơn. Nhưng nhà chị xa ngoài bến thuyền, nơi du khách bắt đầu cuộc hành trình vào Phong Nha. Từ mờ sáng chị quá giang thuyền lên núi, tàn chiều quay về nhà. Hôm nào đông du khách, chị kiếm được chừng ba mươi ngàn, nhưng có ngày vắng người, khách ngại leo núi, chị về tay không.

Chị đẹp, và khuôn mặt phúc hậu hiền từ đến mức người trong đoàn tôi phải thốt lên, “thấy thương đến nỗi không nỡ chọc ghẹo”. Chị hay cười, lúc cười còn hiền hơn. Tôi than đói, chị chia một cái bánh mì nhỏ teo và giở nắp nồi mời tôi, trời ơi, mớ khoai luộc còn nghi ngút khói, củ khoai cũng nhỏ, ngọt lừ, chị nói khoai này không bán, ăn với chị cho vui, có vẻ như chị đã san sớt cho đám người mệt nhừ, đói khát chúng tôi ít thức ăn của buổi trưa rồi. Không biết cảm động vì điều đó, hay vì cái cười thuần khiết,  vì giọng nói dịu dàng, vì sự thẹn thùng, sượng trân mỗi khi gã táo tợn nào gọi, “bán thêm chai nước, mình ơi”… mà tôi bỗng nghĩ, trời ơi, mình đã gặp được người đẹp nhất Quảng Bình. Lúc ra về, một anh bảo, hẹn mai mốt gặp. Chị cười, “biết còn quay lại nữa không mà hẹn?!!”. Nghe ngậm ngùi, nghe buồn buồn, như chúng tôi vừa lỡ lời.

Sau mỗi bậc thang, quán chị khuất dần. Tôi bỗng nghĩ về những con người cô đơn tôi đã gặp suốt dọc đường. Như chị, lũ lượt một ngày bao nhiêu là du khách lên ngọn núi này, ai là kẻ tri âm? Dừng chân một chút, uống ly nước, ăn quả trứng, mua món hàng lưu niệm, ai chia sẻ với chị những vui buồn? Ai lo lắng cho chị nếu bất ngờ chị lên cơn sốt vì sương lam chướng khí? Lũ lượt ngang qua chị biết bao người phải chăng là bao nhiêu sự trơ trọi, cô đơn?

Như người thu phí cầu Mỹ Thuận, chị nhân viên tiếp tân khách sạn, anh bảo vệ trong lăng Tự Đức… tôi luôn đọc được sự lạc lỏng đơn độc của họ với cuộc đời. Chúng tôi càng đông đúc, càng vui vẻ, càng phô trương và thoả mãn với những gì mình có càng đẩy họ ra xa mình. Đứng giữa dòng người, nhưng họ bị chìm khuất và quên lãng đi, vì chúng tôi tiếp xúc với họ chỉ bằng tấm lưng chứ không bằng khuôn mặt. Chúng tôi đi qua đi lại, cười cười nói nói, chọn những cảnh đẹp nhất để chụp tấm hình đem về khoe khoang, và  chúng tôi đã bỏ họ lại phía sau, vì những bộ quần áo sang trọng lượt là, những món hàng lưu niệm xa xỉ. Vì sau đó, chúng tôi sẽ về nhà, sẽ quên lãng họ.

Họ thì vẫn ở đó, vật lộn với cuộc mưu sinh. Có lần, tôi tấm tắc khen với một người Quảng Bình, Phong Nha đẹp quá, đẹp nhất nước đó, chị à. Chị chèo thuyền cười, tui cũng không biết nữa, hồi nào giờ tui chỉ biết bến thuyền, với một khúc sông Son, có đi khỏi đây đâu mà biết chỗ nào đẹp hơn chỗ nào”. Tôi định khen lấy lòng, để xem người phụ nữ nghèo khó này hạnh phúc tự hào như thế nào, không ngờ… Mất ba mươi năm tôi mới tới Phong Nha, cứ nghĩ quá dài, cứ xấu hổ với bạn bè về sự ngơ ngác, quê mùa của mình, còn chị gần năm mươi rồi, thị xã Đồng Hới vẫn là một nơi xa xôi, lạ lẫm.

Và người phụ nữ này vẫn vài ba ngày lại đưa rước khách vào thế giới hang động nổi tiếng thế giới, ghi tên mình vào bộ tộc những người cô độc, cười nói với người đời mà thui thủi ở một bến bờ xa xôi, nơi có bảy đứa trẻ trong ngôi nhà nhỏ bên sông Son đang hau háu đợi thuyền mẹ về. Không phải ai cũng biết điều đó, người ta nhiều khi tưởng chỉ một mình lủi thủi nơi thâm sơn cùng cốc, xa làng xa chợ mới gọi là cô đơn.

Nhưng sống giữa bầy đàn đông đúc mà không ai hiểu được mình, không ai chia sẻ với mình, không ai trìu mến với mình, đâu thử lên núi cao xem có đỡ đau hơn không?

Nguyễn Ngọc Tư

Tháng tư


Bao giờ thì cũng là thứ nắng đỏ quạch quánh đặc như có thể nắm một nắm trong tay. Gió lặng ngắt hoặc có cũng phảng phất chút gì như xa vắng thảng hoặc. Vài trận mưa thập thò hệt đứa trẻ thử rưới ít nước lên chảo lửa ngun ngút rồi đâu lại đó, nắng đỏ hơn, ngằn ngặt đến tận cuối chiều, muốn ăn lan cả vào đêm.
Giữa nắng và nắng và nắng gắt gỏng như nhau, người ta hầu như không được chọn lựa. Cứ chịu trận và chờ đợi thứ gì đó chậm chạm trôi qua. Trên đỉnh mùa khô, trời đất đứng trân trân, không khí phập phồng rịn mồ hôi. Cây cỏ lả đi. Mùa rừng cháy. Mùa giáp hạt. Mùa bới khoai. Trẻ con chân trần đi mượn gạo nhà hàng xóm ngang qua những đám sậy cháy xém, tưởng như da thịt cũng bốc hơi. Người lớn khum khum tay cho đỡ chói ngó về phía chân trời, nơi những núi mây xám một hôm nào đó sẽ đùn lên mang mùa màng tới.
Đặc sản của tháng Tư ngoài nắng còn có...  phim tài liệu, cũng hôi hổi, ngun ngút những đạn bom, những vùng trời bùng lên cháy loạn. Hồi nhỏ, không hiểu sao tôi mê loại phim này, trong khi đám con nít cùng xóm hoặc thắc thỏm ngáp vắn dài chờ tới giờ chiếu phim truyện, hoặc ra sân chạy chơi. Thành ra buổi đó chỉ có tôi lọt thỏm cùng người lớn, chẳng hiểu mấy, thấy đánh nhau là khoái, cứ níu tay ba hỏi bữa nay bên mình đánh bên nó tới chỗ nào rồi. Màn ảnh vô tuyến rùng rùng những người những xe, những mũi tên màu đỏ chạy về một nơi nào trên nước Việt gầy gò này mà tôi không hình dung nổi.
Những ngày đó thì chú Năm Thái không thấy qua coi ké ti vi. Cái góc bộ ván ngựa nhà tôi bỗng dưng trống trải, vắng thím Năm hay ngồi ngủ gà gật bên cạnh chồng. Hết tháng Tư, họ mới quay lại, thất thần và nặng trĩu như đã đi đâu xa lắm, mới về.
Những thước phim năm qua năm càng thêm lem nhem. Nhì nhằng như có mưa. Xước như gai táo cào trên da thịt. Tôi gần như thuộc lòng những hình ảnh trên đó, dần dần rút ra kết luận trong mấy cái phim tài liệu tháng tư những người cầm cờ hoa chân thường phải giẫm lên áo xống giày dép nón cối nằm lủ khủ dưới đường… Phát hiện ra phim nào thì cũng hùng hồn hối hả từ giọng người đọc lời bình đến nhạc phim đến  nhịp điệu phim… Phát hiện ra chú Năm không qua coi truyền hình vì hồi trước chú theo bên nó, mà trên phim người tagọi bằng giọng rắn đanh là “địch”, “quân bán nước”, “lũ tay sai”... Chỉ trẻ con nhà chú là nhởn nhơ vô tình, lâu lâu lại ngán ngẩm rên lên, “sao bên nó không chịu thua sớm sớm để hết phim cho rồi, để tụi mình được coi “Biệt động sài gòn”, “Ván bài lật ngửa”. Má tôi ngó đám trẻ khét nắng ngậm ngùi.
Ti vi tháng Tư không cho trẻ con nhà nghèo hồi ấy nhiều lựa chọn, chỉ khác nhau ở chỗ nhiều hay ít, chứ kiểu nào cũng trầy xước.
Giờ tôi đã xem thêm nhiều bộ phim tài liệu nữa về sự kiện tháng Tư, với những cách kể khác, góc nhìn khác. Như thể tôi được ngắm bên phải bên trái bức tượng mà mười mấy năm trước khi còn là đứa trẻ chỉ được nhìn chính diện. Những thước phim của các hãng thông tấn nước ngoài sáng đẹp như mới quay hôm qua, như hôm qua chiến tranh hãy còn đang thở dốc trong cái nắng tháng Tư sôi sùng sục. Ngó vào màn ảnh trong veo nhưng cái cảm giác xây xước vẫn chưa bao giờ tan mất. Cảm giác ai đó và cái gì đó lại bị tháng Tư cào rách, không phải trên mặt, mà sâu ở lòng.
Tôi nhớ người hàng xóm bỗng rời rã vật vờ không bởi vì cái nắng tháng Tư ngun ngút. Nhớ những cái phim trầy trụa được đem ra chiếu đi chiếu lại hồi xưa, nhớ giọng người đọc lời bình, trời ơi, chưa bao giờ chùng xuống.

Nguyễn Ngọc Tư

Mùi của mây trời


Mùi long não trên người bà già xộc lên mũi tôi trong lúc giúp bà cài dây an toàn. Bà hỏi mở cửa sổ được không, một câu hỏi khiến tôi phải bật cười, như ngay trước đó bà hỏi trên này có nhà vệ sinh không hay là phải ghé dọc đường làm cái chuyện không ai thay thế được. Chúng tôi đang ngồi trên chiếc máy bay sẽ cất cánh trong giây lát nữa.
Ngay từ khi bước chân lên khoang máy bay bà già đã than ngộp thở quá, kêu ca máy bay mắc tiền mà hôi mủ (?!). Nếu không bị con cái ép đi máy bay một lần cho biết, bà sẽ đi xe đò, loại xe cùi bắp để mở cửa cho gió vô, dễ ngủ. Ở nhà cũng vậy, có thả cửa thì mới ngủ thả cửa được. Tôi thấy hơi mắc cười thầm nghĩ thói quen này sẽ là thảm họa khi đi…tàu ngầm.
Ẩn ức về chuyện kẹt trong những lốp kính dày không bao giờ được mở, dù hệ thống điều hòa trên máy bay đã làm người ta so vai vì lạnh, bà già vẫn tiếp tục kể về những cây sứ cùi, cây ngâu bên ngoài cửa sổ nhà mình, về hai cánh cửa gỗ bị mưa nắng làm cho thâm sì nứt nẻ. Câu chuyện gợi lên một cơn nhớ lơ tơ mơ những cửa sổ nhà ngoại hồi tôi còn ở đó. Cũng mở toang suốt, ngủ dậy trước nhất nhìn qua khung cửa, thấy lấp ló một ngày. Những bữa mưa gió lớn buộc phải đóng cửa lại, tôi thấy bức bối ngộp như sắp đứt hơi đến nơi rồi. Và qua cái cửa đêm đêm gió đắp cho đứa trẻ tôi mùi của những cái nắp lu chầm bằng lá dừa nước đã lâu ngày mục rã. Mùi rêu dậy trên những mảng tường tuổi gấp mấy lần tuổi tôi.
Người quê không đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài dù cửa đóng then cài. Bởi những cánh cửa lá sách ở gian nhà xưa dù đóng kín rồi vẫn len lỏi vào nhà một thứ khí trời trong veo trong vắt, chỉ hít thở thôi đã nghe ngọt lịm rồi. Trăng và nắng vẫn lọt sáng qua những khe lá. Dường như người và thiên nhiên không bị bứt rời nhau.
Từ bỏ quê về chợ không gặp lại cái không khí ấy nữa, tôi đã chặn mùi hoàng lan cồn cào  buổi chạng vạng bên ngoài cái cửa kiếng kín bưng, rồi thở bằng không khí lạt lẻo lờ lợ phả ra từ máy điều hòa. Cũng đôi lần ngó ra ngoài nghĩ, nếu mở cánh cửa, tỉ mẩn lọc cho kỹ, chắc trong mùi khói xe có mùi cỏ cháy, mùi cơm khét bên nhà hàng xóm, hay hương đất tanh tanh sau mưa.
Vậy thì những đụn mây trùng trùng như núi kia có mùi gì, cái tầng khí quyển âm mấy chục độ này có mùi gì? Tôi sực nghĩ vậy khi nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay, khi lướt qua chỗ bà già đang tuyệt vọng ngọ nguậy trong cái dây an toàn thít chặt, tôi bất giác cũng có ý muốn mở cái cửa sổ này. Chỉ là tò mò thôi, không phải để thở như bà già vẫn tưởng bất cứ cánh cửa nào mở ra đều cho người ta hít thở.
Và lúc gió phi trường phả cơn nóng hầm hập đón hành khách chếnh choáng bước những đầu tiên lên mặt đất, bà hít hà khoan khoái rút ra kết luận đi máy bay chỉ được cái nhanh, còn lại chán, không có cảnh gì coi, mà lại ngộp muốn chết. Rồi bà ngạc nhiên hỏi bây không thấy tù túng à?
Tôi chỉ mất chưa đầy một giây cho việc trả lời không nhưng mất nhiều ngày sau để thắc mắc, tại sao tôi không thấy ngột ngạt chút nào? Sao tôi không còn khao khát nối kết với tự nhiên, không thèm muốn được thở những thứ khí trời bên ngoài những cánh cửa, một thứ tự do mà bà cụ kia luôn khao khát?
Ai đã làm gì tôi và tôi đã làm gì tôi, làm sao mà tôi không còn thường xuyên nhận ra mình đang trong tù đọng, hít thở tù đọng, yêu và sống giữa bầu không khí tù đọng?
Bên ngoài những cánh cửa mà tôi thường tì mặt vào ngó mông lung, có lẽ chỉ cần mở ra sẽ ngào ngạt hoa ngâu hoa lài…

Nguyễn Ngọc Tư

Trần thế


Ba tháng, cũng có th lâu hơn, mình không đc báo. Mình coi như đó là cuc…cách mng, như bn năm trước mình cai… ti vi. Nghĩ là mình cũng qua được thôi, dù trước đó bui sáng chưa cm t báo như th ngày vn chưa m, như báo là mt th không khí đ th. Và bui sáng hôm đó, khi ghé qua quán cà phê mà bn mình hay ngi, cu nhóc bán báo quen chưng hng mếu máo than mt mi ri khi thy mình kha tay, lc đu t chi.
Chỉ là một từ bỏ nhỏ, tưởng không can hệ gì mà cuộc sống mình bỗng khác. Mình cảm giác đi bên rìa đời, bên bờ khác, an nhiên bước chậm trong khi thế giới vẫn giẫm đạp chen nhau bươn tới… Thấy rơi trong bầu không khí nhẹ nhõm, êm đềm. Những sáng ngồi quán vị cà phê không còn đắng ngắt, đắng đến nghẹn đi vì những trang báo ngày chưa ráo mực lấy từ giỏ xe thằng nhỏ bán dạo. Không còn xiên thấu lòng mình hình ảnh một bàn tay thò ra khỏi mái ngói kêu cứu giữa dòng nước lũ, không va đập đau điếng vào mình cái cảnh trẻ nhỏ bị bọn chăn dắt lột trần truồng nằm dưới mưa. Không lửa hắt làm máu mình sôi lên khi đọc thấy tin tức một cánh rừng bị bức tử, những con voi bị bắn chết…
Không gì cả. Những tin tức xa xôi đâu đó dưới trời này đã bị chặn, thì vài sự kiện lao xao của cái thành phố nhỏ nơi mình sống chỉ có thể làm mình xao động một chút, rồi thôi. Giờ thực sự mình với mình, với sách, với trẻ con. Vài ông bạn từng thuyết phục mình bỏ đọc báo, nhắn đi nhắn lại rằng đừng tưởng đấy là kiến thức, đừng tưởng biết hết thật ra chẳng biết gì, rằng đó là bề nổi của cuộc sống, đừng nên nhìn đời theo cách ấy…  có vẻ đắc chí, thế chứ, đã bảo rồi mà.
Mình bắt đầu đi dụ dỗ bạn bè, ca tụng việc không đọc báo như đã tu nửa cuộc, như sống thần tiên trên núi, mọi thứ chung quanh tươi tắn và thanh sạch. Bạn rên lên kêu khó. Buổi sáng mà không cầm tờ báo trên tay thấy như đói, dù lắm khi báo cũng không có gì để đọc, dù thông tin bạn tìm được trong lúc lội mạng xã hội vẫn hay ho sinh động hơn nhiều. Biết là mất thời gian nhưng nhiệt độ cuộc sống hiện lên trên ấy, bạn phân trần, không đu theo thấy như bị bỏ rơi. Mình cười thôi bạn cứ ở lại chơi, mình lên núi đây. Rồi thì ai quan, ai sắm du thuyền triệu đô, đất nước nào vừa chính biến, dòng sông nào vừa giãy chết… không còn nhồi máu tim mình nữa.
Dường như đó là cuộc chạy trốn, đôi lần mình nghĩ vậy, khi nhìn quanh bỗng vắng. Nhận ra chẳng phải người đời cứ không đọc báo mà thành tiên. Nông dân bận bịu ngó trời ngay ngáy lo mùa thất bát, buôn gánh bán bưng cùng với đánh giày bạc mặt mòn chân cho cuộc mưu sinh, sư bận kệ kinh, mấy chị nội trợ quẩn quanh với cá lên giá chồng nhậu khuya. Mình có chút bơ vơ.
Và một bữa mình ngoắc thằng nhỏ bán báo lại, như cú tiếp đất sau bao ngày lơ lửng. Trải tờ báo trước mặt, lướt qua từng trang một, mình bỗng nhận ra chưa từng bị đứt đoạn dù đã đi vắng cũng lâu rồi. Thế giới vẫn đầy nước mắt và hỗn loạn y hệt hôm mình rời khỏi. Một chiếc tàu du lịch chìm mang đi nhiều trẻ con, một xóm “nhà không nóc” cũng nheo nhóc con nít mồ côi cha, một ông già bị chính máu thịt ruột ràng đuổi ra đường sống đời bờ bụi, những ngư dân bị hiếp đáp bỏ mạng ngoài khơi… Lại là cảm giác bị trăm con sóng nhồi, bị que xiên qua thịt da, bị xóc dằm, thấy chính mình bị giẫm đạp, phẩn uất dồn lên nghẹn cổ. Rời rã. Mệt nhừ.
Lần đầu tiên mình nhận ra - sau chuyến phủi bụi trần thế thõng tay đi chơi núi - những cảm xúc ngột ngạt bị đẩy đến tận cùng, đến ngộp thở đó có khi cũng cần thiết cho mình, một người viết. Chữ bật ra từ những nỗi đau, biết đâu…

Nguyễn Ngọc Tư

Rừng bần


Chiếc ghe máy đi chậm rãi trên lòng rạch đang buổi nước ròng. Hai ông cháu chủ ghe làm tôi nhớ cái truyện Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc, dù ở đây nhiều bần, ít mắm. Thằng nhỏ đen thui, da mốc cời trên mình chỉ dính cái quần cộc, nằm gối đầu lên ông già cũng đen thui mốc cời chỉ quần cộc trên người. Họ đưa tôi ra gần cửa biển, chỗ một cồn cát nghe nói khá đẹp. Nước biển trong, tắm được. Người ta hay ra đó chơi, thằng nhỏ quảng cáo ngắn gọn. 
Hai bên bờ rạch là những cây bần lớp quỳ lớp đứng thành chòm, thành rừng. Những trái bần xanh gây ra một phản xạ ứa nước miếng, ê răng cho những ai từng nếm thử chúng, dù chỉ một lần. Cây lá thưa, cành rời nên có mọc dày cũng không thấy chen chúc, vẫn thấy những khoảng trống. Dầm chân trong sình lầy, mỗi cây là một đìu hiu, họp lại làm rừng cũng là một rừng đìu hiu, buồn buồn. Ngửa mặt thấy phía trên những nhánh bần de ra lòng rạch là trăng chiều mỏng và lạnh. Cảnh này mà có thả cụ Charlie Chaplin vô giễu thì cũng không cười nổi. Riêng cái tên bần thôi đã nghe có chút ngậm ngùi rồi.
Chiếc ghe tấp vô bờ, thả tôi lên cồn, ông già dặn cứ chơi vui chừng nào về cũng được. Tôi lang thang giữa những rẫy dưa hấu tàn mùa, chỉ còn mấy trái đèo nằm chèo queo trên cát. Những gốc cây dạt lên bãi sau cơn biển động nằm chỏng gọng. Vài người đàn bà đi mót củi không nói cười. Đơn độc giữa bãi biển là căn chòi canh giữ của hợp tác xã nghêu giống, nóc cắm ngọn cờ le lói. Xóm cồn nhà nào cũng thấp, phần lớn cất bằng vật liệu tạm bợ. Báo viết cồn cát này sắp bị biển nuốt mất, nhưng mấy thím đang ngồi làm cỏ rẫy thì lia mũi dao về phía trời ngó bộ rất coi thường, “ối người xứ này đất bồi thì ở đất lở thì đi, lo cũng không khỏi...”. Lội bộ mỏi chân nên ghé một nhà có ông già đang ngồi tư lự, hỏi nhà mình sống bằng nghề gì, ông tỉnh bơ cười, “qua ăn trộm”. Mắt không hề chớp. Thì ra là trộm nghêu giống của hợp tác xã mà chính ông cũng là xã viên. Hồi trước nhà ông có vài công đất rẫy nhưng bị sóng nuốt mất rồi, giờ không cào nghêu trộm thì chết đói. Ông nói không trông mong gì cái ban chủ nhiệm toàn là vơ vét lấy cho đầy túi họ. Đang ngồi có người đàn ông tạt vô uống mấy ly trà, nói vài câu qua quýt, còn vô bếp lục nồi ra chiều thân mật lắm. Chừng khách đi rồi ông già mới nheo mắt khinh bỉ nói, “Phó chủ nhiệm hợp tác xã đó, như mật thám hồi chiến, suốt ngày đi thăm dò, bếp nhà qua mà có thịt là nó biết qua cào nghêu của nó…”. Nhưng trong bếp không có gì ngoài mấy con cá kho quéo, dưa hấu non xắt nhỏ xào mở tỏi. Ông già thấy tôi hơi xót cho bầy con nít lủ khủ đầy nhà nên hạ giọng thầm thì, “thịt heo bà vợ qua giấu trên giàn củi, đợi khuya mới cho tụi nhỏ ăn…”
Sau chi tiết đó thì tôi thấy cái xóm cồn nhỏ này trở nên thênh thang. Mấy chục nóc gia bị cắt vụn bởi cuộc chiến giành giật miếng ăn. Biển nuốt đất nên trả lại cho người một bãi nghêu, được nghêu thì tình người hao khuyết. Chòm xóm mặt cười với nhau mà lòng lạnh. Như màu trăng giữa nắng. Như cây bần, như rừng bần, đứng kề mà như rời ra, cô độc.
Tôi bỏ ra chỗ chiếc ghe đang đậu chờ dưới mé rạch. Ông già đang nhả khói hơi ngạc nhiên, hỏi sao tôi chơi ít vậy. Tôi than xóm này buồn quá. Ông ờ ờ quăng điếu thuốc hút dỡ xuống rễ bần, nói nhẹ bâng, “Mấy bữa trước, ngay trân đêm hội lăng Ông, có người ăn trộm nghêu bị bắn què giò…”
Câu chuyện làm tôi muốn lập tức quay về, nhưng thằng nhỏ cháu của ông già chạy chơi đâu mất. Ông già réo gọi hoài không được, sợ du khách phật ý nên rốt cuộc ông già bỏ thằng nhỏ lại. Ghe đi một đoạn thì thấy trên bờ thằng nhỏ dọt theo kêu ngoại ơi ngoại. Ông già lầm lì như không ngó thấy. Thằng nhỏ chạy dọt qua khỏi đầu chiếc ghe rồi lội càn xuống đu mũi ghe leo lên. Ướt ròng, thằng nhỏ ôm bàn chân đang chảy máu ,chắc bị miểng ốc cắt, lấm lét ngó ông già. Nếu không liều nó sẽ phải lội bộ ba cây số, luồn qua bao vạt rừng bần, qua một con rạch mới có thể về đến nhà.
Suốt chặng đường từ mé biển về tôi ngồi giữa cơn im lặng của hai ông cháu. Trời im gió, những cây bần lặng yên không vẫy. Trả tiền công cho ông già xong bỗng nghe thằng nhỏ thỏ thẻ, “có tiền thì khuya nay mình khỏi đi cào nghêu, hả ngoại ?”.  
Rừng bần thì đẹp lắm, nhưng buồn…

Nguyễn Ngọc Tư

Ba đồng một mớ mộng mơ


Khi bước qua cái cửa xiêu của căn nhà xiêu, khi mắt chị còn chưa quen với cái không gian tối tăm bên trong nhà, cái mà chị nhìn rõ nhất là ánh mắt sáng quắc của thằng bé. Nó nằm cong queo trên giường, héo như một đứa trẻ lên năm. Xương nó nhô ra mẩu nào cũng bén ngót. Miệng liên tục đớp không khí, nước dãi ri rỉ chảy ra bên khóe môi sần sùi, thằng bé nối một sợi nhìn bền dai vào chị, hút chị đến ngồi với nó. Và từ đó, nó không buông tay chị ra nữa. Cứ níu lấy, cứ ghì chặt, mắt ầng ậc nước, cổ họng phát ra những âm thanh gru gru vô nghĩa… thằng bé tỏ ra quyến luyến không rời.
Bà mẹ xoắn quần ống cao ống thấp, chân rơi ra những mảng bùn khô, nói thằng nhỏ đã hai mươi mấy tuổi rồi, bà không nhớ rõ vì có nghĩa gì đâu, nó bao nhiêu tuổi thì mãi mãi như đứa trẻ như vầy thôi. Chị bỗng có cảm giác cách nắm tay này, cách nhìn da diết này là của một chàng trai. Máu mơ mộng trỗi dậy.
Nên chị nán thêm chút nữa trong khi những tình nguyện viên khác trong nhóm công tác xã hội đã lên xe ngồi chờ. Chị muốn biết thằng bé sẽ nói gì với chị. Cái sự chị sắp đi khiến nó kích động dữ dội, cơ thể co giật, mặt méo xệch, miệng há to và nước dãi chảy ra ròng ròng. Nó đang cố nói. Chị cố đợi một âm thanh khác với những tiếng gru gru tuyệt vọng. Chị ghé tai vào gần, rồi gần hơn nữa, đến nỗi tai chị gần như chạm môi nó.
Và nó nói bật thành tiếng. Bằng tất cả tinh lực.
Chị ra xe, quệt nước mắt chị gượng đùa, trời đất, tưởng đâu nó mê mình. Đùa, vì chị không mơ mộng đến vậy, chị mong nó nói “Ở chơi!”, nhưng suốt buổi ngồi với thằng bé, thấy nó nhìn mình khi dịu dàng khi rát bỏng, làm những cử chỉ khi trìu mến khi riết róng, chị không bao giờ tưởng tượng là nó nói “TIỀN!”.
Có người nghe chuyện nói đáng đời, ai biểu lãng mạn chi.
Nhớ hồi mới lấy chồng, chị mua tặng mẹ chồng ở quê cái nồi cơm điện. Mẹ đem cất vì “nấu cái này không có cơm cháy với nước cơm cho tụi nhỏ chan…”. Tặng mẹ mấy bộ đồ bà cũng khổ sở phân trần, “màu sáng quá má ra vườn sợ dính mủ chuối…”. Chị mua truyện tranh đem về cho bầy em, tụi nó háo hức cầm lên rồi hỏi bằng giọng háo hức hơn nữa, “chị hai có mua bánh mì không?”. Cứ trớt quớt vậy. Mỗi lần nhìn bình hoa vải chị mang về mẹ lấy túi ni lông bọc lại cho khỏi bụi, cho nó đỡ chói lên đơn độc giữa căn nhà vách lá, chị có chút mắc cỡ. Giờ thì chị chỉ mua đường, nước mắm… và chắc chắn chúng được hồ hởi đón nhận. Đôi lần chị thấy hơi cay đắng, đời người sao chỉ quẩn quanh với những thứ tầm thường bột ngọt, xà bông…
Trước hôm mẹ chồng qua đời, bà viết cái thư. Chị vừa đọc vừa khóc. Thư chỉ dặn chuyện tiền nong, đất đai. Lời cuối cùng, như chị vẫn thường quen đọc ở đâu đó, rằng “mẹ để lại muôn vàn tình yêu thương cho các con”, thì mẹ chồng chị viết “bỏ lỗi cho má, vì má mót được có nhiêu đó, chia cho tụi con hơi khó…”. Chị biết là mẹ thương con theo kiểu của mẹ, biết đâu còn nhiều hơn những bà mẹ kia, nhưng vẫn hơi bẽ bàng.
Biết là đời giờ ô trọc, nhưng chị thích mua vé đi tàu mơ mộng, không hay giờ tàu đó cũng chở vịt, gà… mất rồi. Lảo đảo xuống tàu mới biết tại mình hay tưởng mà ra nông nỗi. Có lần chồng chị dúi tiền vào túi kêu vợ đi mua kem dưỡng da tay. Chị sướng suốt buổi chiều, miệng tủm tỉm cười bâng quơ không đừng được. Sau đó anh còn khiến chị ràn rụa nước mắt khi bảo “nhìn cái tay nhăn nheo đi nhào trộn thức ăn là thấy hết ham, thấy mất ngon rồi…”
Chị ngồi ngắm mãi bàn tay, nghĩ, người ta nói yêu nó một câu thì có mất gì đâu. “Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi…”, câu hát đã có thời chị ghét, sao giờ thấy đúng ý mình.

Nguyễn Ngọc Tư

Có hẹn với tivi


Cái quán đá đậu đó chừng mười năm rồi mình không ghé. Một bữa tạt qua với bạn học hồi cấp ba, bật cười nhận ra những cái ghế gỗ xưa hai đứa học trò có thể ngồi chung giờ quá nhỏ nhắn so với những cái mông đàn bà đã chảy nhão, sồ sề. Bạn với mình đã con cái đùm đề. Quán vẫn nằm chỗ cũ, vẫn cách bài trí cũ, bàn cũ, ghế cũ, hương vị cũ... Chỉ những người cũ ngồi đây chiều nay là bị thời gian thể nghiệm sự nghiệt ngã, ráo riết của nó. Tóc hai chị em bà chủ quán đã trắng xóa.
Hồi mình còn học thì hai mái đầu kia chỉ bạc lai rai, đôi lần thấy họ nhuộm. Khi chị, khi em. Những khi tóc một trong hai người đàn bà lỡ thời bỗng trở lại xanh mịt mùng, luôn xuất hiện một ông ăn mặc chải chuốt bắc ghế ngồi gần quầy nước, cười nói rù rì. Mấy đứa học trò tinh quái ó ré lên, kêu  “Tụi bây ơi, Năm sắp lên xe bông kìa”. Và theo sau đó là tiếng nạt nộ sượng trân của người đàn bà đã qua xuân sắc, “đồ con nít quỷ”.
Nhưng hai chị em mãi chưa kiếm được tấm chồng. Cũng đẹp, hiền hậu, giỏi giắn, chỉ chữ duyên là hẹn nay hẹn mai, rồi biệt mù. “Mấy thằng cha đó hả, toàn hứa rồi xách đít đi mất”, bà Hai cười, trả lời câu hỏi của khách cũ rằng mấy ông hồi xưa chàng ràng ở đây, giờ đâu? Miệng bà móm vì mấy cái răng sâu bị rụng một cách mất trật tự, như hậu quả một cuộc cướp bóc thô bạo. Như không phải tự dưng mà chúng rụng. Một lời hứa lấy đi vài ba năm tuổi, ít nhiều hy vọng, lôi tuột thuốc nhuộm ra khỏi tóc, khắc nhì nhằng thêm vài nếp nhăn lên da. Thời gian đã bạc, biết lấy gì nhuộm bây giờ.
“Em ơi lửa tắt bình khô rượu…”, tự nhiên câu thơ của Vũ Hoàng Chương nhảy nhót trong đầu mình, khi thấy bà Hai cặm cụi dọn ly, còn bà Năm túc tắc cầm giẻ lau bàn, và tiếng ho rớt lay lắt nhẹ hều, không đủ sức nảy lên sàn nhà nhiều mảng gạch đắp vá. Chỗ mà mấy ông tán tỉnh xưa ngồi chéo nguẩy, giờ là cái ti vi màu đang chạy chữ giới thiệu chương trình phát sóng buổi chiều. Hai bà già trở nên rạo rực, “không biết bữa nay họ bắt được thằng trời đánh ấy không hen?”. “Ừ, phim gì vô duyên, lòng vòng mấy bữa rày mà thằng ôn dịch đó vẫn chưa đền tội”.   
Cái xao xuyến đó khuấy cái không khí chìm nghỉm ù lì của buổi xế trưa lên, mơn man loang qua chỗ tụi mình ngồi. Bạn dẹp mình qua một bên, phụ họa với hai bà già, hồ hởi bàn tán cái phim Đài Loan dài tập chiếu trên đài truyền hình đang vào độ gay cấn nhất. Mình ngạc nhiên khi biết bạn có thể thảnh thơi khóc cười với phim sến rện ngay vào giờ cơm tối, giờ cả nhà xúm về.
- Giờ đó có ai ở nhà đâu mà không rảnh.
Bạn bồi hồi giải thích. Chồng hứa về ăn cơm, nhưng thường hứng chí tạt qua quán nhậu. Con cũng đi chơi bóng rổ sau buổi học thêm. Có bữa cả nhà rủ nhau đi ăn ốc thì cơ quan chồng tiếp khách đột xuất, “thôi để mai…”. Chừng chục cái mai thì mới thành một bữa ngồi quán tiu nghỉu vì nguội thèm, cụt hứng.
Và gốc cột bị mối ăn, bếp dột, một người họ hàng nằm bệnh cần thăm viếng… bạn hay nhận được lời hẹn: mai. Những hẹn hò bẽ bàng, mòn mỏi vì người hẹn nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian phía trước.   
Chỉ ti vi là đúng hẹn. Rủ mình đứng lên về, bạn nói phải nấu cơm cho xong trước khi kênh Tám chiếu tập năm mươi bộ phim tình cảm, xong xúc tô cơm vừa ăn vừa coi tập mười hai trên kênh Ba, đến tập ba mươi sáu trên kênh Bảy thì đi ngủ là vừa. Hai bà già bán quán gật gù tán đồng. Buổi tối của những người đàn bà này giống hệt nhau.
Lúc mình với bạn chẻ nhau mỗi đứa đi một hướng, mình sực nhớ tụi mình không hẹn lại cuộc sau, mà hai bà già bán quán cũng không đon đả kêu mai nhớ ghé ăn đá đậu, như mười năm trước. Hẹn hò trở nên đầy rủi ro, gây sát thương trong đời sống quá nhiều bất trắc. Về ngang qua ngôi mộ cổ nằm bên đường, tự hỏi cùng với người nằm dưới mộ này, có bao nhiêu lời hứa được chôn theo, có bao nhiêu thời gian của người ở lại bị bạc màu?

Nguyễn Ngọc Tư

Friday, 21 September 2012

ĐẮNG CAY VÀ KHÔNG MÀU



Mến tặng bạn đọc Trang Thơ ca khúc "Đắng cay và không màu", do 3Chai phổ thơ Phương Mai. Chúc các bạn cuối tuần vui.


Friday, 14 September 2012

Thêm một phiên bản dịch bài thơ "Đợi anh về"

 Một người bạn giới thiệu cho tôi bản dịch bài thơ Xô Viết "Đợi anh về" ( Konstantin Simonov ) của H.T.Q  (Hồng Thanh Quang ?) đăng trên An ninh Thế Giới Cuối Tháng. Trân trọng trích lại đây ,chia sẻ cùng bạn đọc TT.
Tualinh.


Đợi anh, anh sẽ về

4:03, 17/07/2012

Trong đạn lửa, người lính cần gì nhất? Có lẽ không chỉ là lương thảo, đạn dược. Khi đối mặt với kẻ thù, mỗi một đấng mày râu cần nhất là sự tin tưởng tuyệt đối về hậu phương, về lòng chung thủy của vợ, của ý trung nhân. Cứu ta ra khỏi chết chóc không phải là thắng lợi của vũ khí, mà chính là một chữ Tín lắm khi không thể lý giải rành rẽ được.
Nhà thơ Xô viết Konstantin Simonov (1917-1979) đã viết rất hay về điều đó trong khúc tuyệt tình Đợi anh về tặng nữ nghệ sĩ Valentina Serova. Và ở nước ta, nhà thơ Tố Hữu đã dịch bài thơ đó (từ bản tiếng Pháp) rất thành công sang Việt ngữ. Bản dịch đó vô giá không chỉ bởi nó là một tác phẩm văn học tuyệt mỹ mà còn là một chứng tích lịch sử “nằm lòng” nhiều thế hệ độc giả ở Việt Nam. Chính vì thế nên trong suốt nhiều chục năm đã không ai dám dịch lại Đợi anh về vì những ấn tượng quá sâu sắc về bản dịch của nhà thơ Tố Hữu.
Thậm chí ngay trong tuyển tập thơ Simonov Gửi người con gái xa xôi mà tôi là dịch giả, in tại NXB Quân đội nhân dân cuối năm 1996, Đợi anh vềvẫn là bản dịch cũ của Tố Hữu (được xếp vào phần phụ lục). Tuy nhiên, sau đó, trong một cơn ngẫu hứng, tôi đã mạo muội dịch Đợi anh về như một sự thử nghiệm: “Tôi không nghĩ rằng bản dịch của tôi có thể so sánh được với bản dịch của nhà thơ tiền bối nhưng trong những phút buồn rầu, khi phải chứng kiến những cảnh không trung hiếu tín nghĩa, giở chồng sách cũ của mình ra đọc, tôi đọc lại những gì mình đã dịch và cảm thấy xúc động. Và tôi muốn chia sẻ cùng độc giả:
Đợi anh, anh sẽ về,
Hãy đợi chờ anh nhé.
Hãy đợi, mặc dầm dề
Mưa giăng buồn tái tê,
Hãy đợi, mặc tuyết giá,
Hãy đợi, dù nắng nôi,
Dù mọi người hết đợi,
Hôm qua quên lãng rồi.
Hãy đợi, dù xa ngái
Chẳng tới một dòng thư,
Hãy đợi, dầu tất cả
Đã chán chê đợi chờ.
Đợi anh, anh sẽ về,
Chớ mong chi điều phúc
Cho tất cả ai người
Nghĩ giờ, quên phải lúc.
Dù con ta, mẹ ta
Đều tin rằng anh chết,
Dù bạn chờ đã mệt,
Bên bếp lửa quây quần
Sẽ cạn men rượu đắng
Tưởng niệm một linh hồn...
Đợi anh. Và cùng bạn
Chớ nâng ly vội vàng.
Đợi anh, anh sẽ về,
Chẳng xá gì chết chóc.
Mặc ai đó không ngờ,
Thốt lời: May được thoát!
Không đợi, làm sao biết
Giữa bão đạn mưa bom
Bằng mong ngóng chờ trông
Em cứu anh khỏi chết.
Anh nhờ đâu sống sót,
Mỗi hai mình hiểu thôi,
Chỉ vì em biết đợi
Khác ai ai trên đời...
Làm sao anh khỏi chết?
Đơn giản thôi em ơi,
Bởi không có ai người,
Biết như em chờ đợi.
..”.

( đọc toàn bài )

Tuesday, 11 September 2012

Hồ sạch

(Ảnh minh họa)

ЧИСТЫЕ ПРУДЫ 

Композитор: Давид Тухманов
Испольнитель: Игорь Тальков
(Nghe bài hát TẠI ĐÂY)
                     У каждого из нас на свете есть места,
                     Куда приходим мы на миг отъединиться,
                     Где память, как строка почтового листа,
                     Нам сердце исцелит, когда оно томиться.

                     Чистые пруды застенчивые ивы,
                     Как девчонки смолкли у воды,
                     Чистые пруды, веков зеленый сон,
                     Мой дальний берег детства,
                     Где звучит аккордеон.

                     И я спешу туда, там льется добрый свет,
                     И лодки на воде как солнечные пятна,
                     Отсюда мы с тобой ушли в круженье лет,
                     И вот я снова здесь, и ты придешь обратно!
                     
                    Чистые пруды застенчивые ивы,
                     Как девчонки смолкли у воды,
                     Чистые пруды, веков зеленый сон,
                     Мой дальний берег детства,
                     Где звучит аккордеон.

                     Однажды ты пройдешь бульварное кольцо,
                     И в памяти твоей мы встретимся, наверно,
                     И воды отразят знакомое лицо,
                     И сердце исцелят и успокоят нервы.

                     Чистые пруды застенчивые ивы,
                     Как девчонки смолкли у воды,
                     Чистые пруды, веков зеленый сон,
                     Мой дальний берег детства,
                     Где звучит аккордеон.
                  
                  У каждого из нас на свете есть места,
                  Что нам за далью лет все ближе, все дороже,
                  Там дышится легко, там мира чистота,
                  Нас делает на миг счастливее и моложе.
                    
                   Чистые пруды застенчивые ивы,
                   Как девчонки смолкли у воды,
                   Чистые пруды, веков зеленый сон,
                   Мой дальний берег детства,
                   Где звучит аккордеон. 
  
Trong tim mỗi chúng ta đều có một địa danh
Nơi có lúc ta đành xa rời nó,
Nơi kỷ niệm, như những dòng thư lúc mờ lúc tỏ,
Nơi trái tim được chữa lành, khi nó quá mỏi mòn.

ĐK:Hồ nước sạch nghiêng bóng hàng liễu rủ
Như các thiếu nữ  thầm lặng soi gương
Hồ nước sạch, giấc mơ xanh của thế kỷ thiên đường
Bờ xa tuổi thơ tôi
Nơi tiếng đàn accordion vọng tới.

Và tôi vội trở về nơi vầng sáng chan hoà,
Nơi những chiếc thuyền lướt trên mặt hồ 
Như nét mực vẽ lên nền trời xanh biếc,
Nơi tôi và em đã nói lời ly biệt suốt tháng năm,
Và tôi lại về đây, và em cũng sẽ quay trở lại!

Có một lần em sẽ đi trên con đường quanh co đại lộ,
Và trong ký ức của em, có thể, mình gặp lại nhau,
Và mặt hồ trong lại soi khuôn mặt cũ thân yêu,
Và con tim được chữa lành, còn các dây thần kinh trùng lại.
            
 Trong tim mỗi chúng ta đều có một địa danh,
Nơi tháng năm trôi qua
Với chúng ta càng trở nên quý giá và gần gũi,
Nơi có bầu khí quyển trong lành cho lá phổi
Nơi ta lại thấy mình hạnh phúc tuổi đôi mươi.


(Thu Hà dịch)

Monday, 10 September 2012

Xa nhà


Buổi sáng, lúc đánh răng, bọt còn bám vòng quanh mép, Hương hỏi Tuyền: "Cái thời kỳ đẹp đẽ ấy đâu mất rồi?".

Hương chở Tuyền đi làm. Trên đường Giảng Võ, những cây dâu da xoan đội hoa trắng ngà. Dưới bóng những cây cơm nguội, chợ người Giảng Võ nằm, ngồi trễ nải, lơ mơ ngủ ngày. Nắng tháng năm mới tám giờ đã gay gắt. Hương nói giờ này chắc anh ấy còn ngủ trong chăn, anh ấy nóng mấy cũng ngủ trong chăn, tao biết, với máy nhắn tin khóa lại yên lành... Tuyền đến nơi làm việc sớm hơn lệ thường, lòng đinh ninh từ hôm nay mình phải thành một người khác.

ở cơ quan mới chỉ có chị lao công lúi húi dùng miếng bọt biển ngày thường vẫn lau bàn để rửa cốc. Cốc thủy tinh hoa xanh, đỏ va nhau leng keng trong chậu lõng bõng xà phòng. Chị lấy tay che miếng bọt biển khi Tuyền đi qua. Tuyền hỏi sáng nay chị đến đây lúc mấy giờ, chị bẽn lẽn: "Bảy giờ". Quả thật cái hành động đến sớm từ lúc bảy giờ để có thể lấy bọt biển lau bàn rửa cốc thì đành phải lén lút thôi. Đi ngang điện thoại, Tuyền định gọi về khách sạn, dặn nếu có ai gọi đến thì chuyển giùm đến số này, số này..., lại thôi, lại tự khuyến khích, nào, cứng rắn lên, anh ấy cần thì anh ấy sẽ tìm ra; biết đâu đến mười hai giờ trưa anh ấy lại chán ăn cơm một mình, anh ấy sẽ tự biết cách gọi đến đây, cô thư ký sẽ véo von gọi Tuyền: "Điện thoại chị Tuyền", rồi: "alô. Ai đấy...". Tích tắc chỉ một giây để đoán là ai, hy vọng là ai, cái giây hồi hộp ấy cũng như giai đoạn úp mở của tình yêu, ngắn ngủi và giật gân...

Tuyền ngập ngừng đứng bên bàn điện thoại, nghe tiếng máy xe Honda nổ lạch tạch nghẹn ngào vài tiếng rồi lại tắt, rồi tiếng đạp máy nhẫn nại, dưới sân. Tuyền ra ngoài lan can, nhìn xuống thấy cái lưng Hương mướt mồ hôi trong nắng hè gay gắt. Tuyền chạy vòng xuống, nhảy mỗi bước hai bậc cầu thang, trong đầu bói nhanh nếu cuối cùng không lẻ bậc nào thì trưa nay anh ấy gọi... Không lẻ bậc nào nhưng Hương nhăn nhó, tay túm cái váy dúm dó như một đống giẻ hoa. Tuyền đạp máy thử vài cái rồi cố giữ vẻ bình thản, công tâm, bảo: "Hay mày nhắn tin cho anh ấy đến đem xe đi sửa?". Hương ngồi lên xe, buông váy, vừa cương quyết đạp máy vừa nói: "Thôi! Bây giờ có còn như ngày trước đâu mà nhờ!". Cái xe nghe đến đấy chắc cũng biết nước cùng, chợt nổ máy giòn giã một cách bất ngờ. Hương cười hớn hở: "Được rồi! Thấy chưa". Rồi chạy xe thẳng ra cổng, bộ điệu có vẻ còn rất hồi hộp không biết cái xe có còn giở chứng nữa không. Tuyền lại lên nhà trên. Cốc tách đã rửa xong, úp bóng lộn trên khay. Tí nữa mọi người sẽ uống trà.

Tóm tắt, thời kỳ đẹp đẽ mà Hương nói ấy kéo dài được hơn hai tháng và chấm dứt cách đây một tuần.

Khi ấy, Hà Nội cũng chưa nóng như bây giờ, hầu như mỗi buổi trưa ba anh em đều đi bộ dọc con phố nhỏ đầy những quán cơm bình dân với những ông chủ mặc may ô, tay cầm sổ, tay cầm bút, vừa hỏi vừa ghi ngoay ngoáy không nhìn mặt khách: "Anh dùng gì?". Hương ngày nào cũng phải có canh cua và nhộng rang. Anh bữa nào cũng một chai bia và Tuyền thì chỉ ước giờ ăn trưa kéo dài ra mãi. Rồi cả ba đi uống nước để lê la câu giờ cho đến khi Tuyền đi làm. Hương thêm, chưa đủ, thời kỳ đẹp đẽ ấy chúng mình còn hay đi chùa, không nhớ à, những ngôi chùa với rơm rạ phơi quanh, mái đỏ, gỗ mới với mấy anh thợ của đội trùng tu vừa bào bào đục đục, vừa liếc gái, miệng hát ngân nga sai bét nhạc... Rồi chúng mình ngồi quanh chị bán kẹo lạc, ăn dưa chuột, anh ấy thì uống nước chè...

Tuyền người Hà Nội mà cũng như không phải Hà Nội. Tuyền đã sống ở Sài Gòn hai mươi năm. Con trai Sài Gòn hiền lành, đến nhà còn khoanh tay chào ba mẹ Tuyền như trẻ con tiểu học. Anh Hà Nội chính gốc, là kết tinh của hoa sữa, của hồ sen lá lật, của phố cổ quấn quít. Anh "tinh vi". Anh không khoanh tay chào ba Tuyền khi ông ra bắc họp. Anh ngồi đánh cờ ung dung nhưng kín đáo nhường ba Tuyền phần thắng, mà không phải thắng dễ dàng, ở đây thắng hả hê, vỗ đùi hú vía.

... Hương nói, tiếc nhỉ, nếu mày kể cho tao nghe hết thì chuyện này đã không hỏng thế rồi. Hương khụt khịt mũi, tiếc thật, vì tao biết tính anh ấy lắm. Anh ấy hay, thế nên tao mới muốn tác hợp mọi người. Mà, Hương hỏi, nói thật đi, mày đã làm gì anh ấy? Tuyền cười, bảo, chịu, chắc tại tao không còn tinh tế như con gái Hà Nội nữa, tao không biết giấu tình cảm, khi nào tao muốn gặp, tao nhắn tin... Hương cắt ngang: "Thế là đủ hỏng rồi! Sao mày lại rủ trước? Anh ấy thế mà cổ điển lắm, tao biết mà!". Rồi Hương nói như mẹ dạy con: "Phải dền dứ cơ... à, hóa ra là tại anh ấy sợ đấy!".

Phải dền dứ vì nếu không thì anh ấy sợ. Tự nhiên Hương làm Tuyền so sánh lố bịch một người đàn ông với một bông hoa mỏng manh trắng muốt. Tuyền thấy cũng hơi nực cười nhưng cũng nghĩ là từ hôm nay mình nên trở thành một người khác. Tuyền phải thành Hương.

ở chỗ làm, chín giờ, chị Khánh mới vào, chị nói bâng quơ: "Đường với xá, hở tí là tắc xe!" rồi chị bỏ lên bàn bịch mận; gói muối ớt buộc không chặt theo đó rơi ra vung vãi. Xong, chị vịn vai thân mật anh Quang và Tuyền: "Mọi người uống gì để tôi rót luôn thể nào?". Anh Quang, hai chân gác lên bàn, miệng rít thuốc khét mù, mắt nhìn vào màn hình Tuyền đang đánh, trả lời: "Trà chanh, như mọi ngày!". Tuyền định cản mọi người bằng câu chuyện về miếng bọt biển rửa cốc, lại thôi, nhớ ra một trong những thói quen mình phải thay đổi là thói nhiều chuyện.

Chị Khánh bưng trà ra. Lúc này Tuyền mới nhìn, quầng mắt chị thâm thâm thiếu ngủ và buồn nữa. Chị xòe tay ra với anh Quang: "Cho điếu thuốc", anh Quang vứt bao thuốc và bao diêm sang chỗ chị, mắt vẫn nhìn theo những hàng chữ Tuyền đánh, chân vẫn gác lên bàn. Chị Khánh châm phải đến bốn que diêm mới đốt được điếu thuốc, ngay khi chị thở ra bụm khói đầu tiên, anh Quang tủm tỉm cười, vỗ vai chị: "Bồ bỏ phải không?". Chị Khánh không trả lời, thả thêm bụm khói nữa làm mù mịt cả một vùng. Không khí tự nhiên sượng sùng hẳn, Tuyền thấy khó chịu nên nhón một quả mận, tiện tay khoắng vào cái bao xốp cho nó tạo ra tiếng động, không khí nhờ thế loãng ra một chút.

Chị Khánh gạt tàn thuốc vào trong lòng bàn tay. Tay chị trắng và mũm mĩm như những bàn tay quảng cáo cho tiệm kim hoàn. Hết điếu thuốc, chị vừa nghịch tàn thuốc, mặt lại bần thần như muốn nói gì đó. Anh Quang thấy thế nhưng lờ đi, anh dí hẳn một ngón tay vào màn hình, bảo Tuyền: "Em đánh thừa hai chữ phải!". Chị Khánh lại bỏ tàn thuốc vào trong lòng bàn tay trắng mà nghịch. Nước mắt chị chảy xuống ròng ròng. Anh Quang rút một điếu thuốc ra châm, quẹt một phát là diêm cháy bừng bừng. Anh cười dễ thương: "Không việc gì phải thế, không việc gì phải thế. Ngày xưa có lần tao còn định tự tử cơ, bây giờ nghĩ lại vẫn thấy buồn cười". Chị Khánh ngước mặt mỉm cười, mắt chị ngơ ngẩn và mũi chị đỏ ửng. Anh Quang ra lệnh: "Nghỉ vài phút đi". Rồi anh vươn tay khoác vai chị Khánh: "Trưa nay ba đứa mình đi nhậu đi!". Chị Khánh gật đầu, như một pha cận cảnh, nước mắt lại rơi ào ạt xuống đống tàn thuốc trong lòng bàn tay.

Trưa đó, cả ba đi nhậu. Đậu phụ luộc, dồi trường, bia tươi. Trong quán, giấy ăn xanh và hồng vứt bừa bãi đầy sàn. Khi đã ngà ngà, chở chị Khánh ngang đường Cổ Ngư rợp bằng lăng và nóng như lò lửa, Tuyền an ủi chị, chuyện yêu đương chắc là có trời sắp sẵn. Như một kịch bản chúng ta đang viết đây với mọi việc đã phân cảnh. Hôm qua chị vui bên người yêu là một cảnh nhé. Hôm nay chị khóc vì người yêu cũng là một cảnh. Tất cả đều đã lên lịch, mình chỉ diễn lại, buồn, vui quá mà làm gì. Rồi Tuyền chợt nghĩ, nếu theo kịch bản đó trưa nay anh ăn cơm với ai?

***

Hương nói: "Trưa qua chúng tao đi ăn cơm với nhau. Để nhớ đến mày, chúng tao quyết định ăn những món mà mày vẫn ăn!". "Tưởng niệm à? Rồi sao nữa?". "Anh ấy rủ tao đi ăn kem gần Bờ Hồ, anh ấy bảo mày thích ăn kem dâu". "Thế anh ấy ăn kem gì?". "Anh ấy uống cà-phê. Tối qua anh ấy có gọi cho mày không?". "Không!". "Mày có nhắn tin không?". "không!". "Buồn nhỉ! Hội chúng ta tan rã sao!". Hương thở dài mà mặt thanh thản, váy hoa phấp phới bước qua đường, đi thẳng vào cửa hàng bách hóa treo đầy túi du lịch đỏ xanh cùng quầy điện máy nhìn ảm đạm như đồ mã. Hương sà qua hàng kính, đeo thử vài đôi giả Hồng Công, nghiêng qua nghiêng lại khuôn mặt bé tí teo trong cái gương thử. "Mua để chủ nhật còn đi chùa!". Hương không rủ, Tuyền không hỏi làm gì. Đi ngang cái cột nhà có ốp kính, vô tình Tuyền nhìn vào, thấy sao mà mình xấu thế, đến mình còn không chịu nổi mình như thế này thì trách gì người khác! Hình như đã lâu lắm rồi Tuyền tránh soi những cái gương công cộng: tiệm cắt tóc, trong hiệu ăn và cả những cái gương con thử kính râm.

Tuyền rủ Hương đi ăn kem. Anh ấy nói Tuyền thích ăn kem dâu! Tuyền gọi kem dâu xem thử mùi vị nó ra sao. Vì sao hôm qua mọi người đi không rủ Tuyền? Vì sao Hương lại không giấu Tuyền? Hay anh gặp "bà mai" để bàn việc nối lại thời kỳ đẹp đẽ? Bên Bờ Hồ, trời lặng không một vẩy gió, từ quán kem nhìn ra, Tuyền thấy chị Khánh ngồi hút thuốc một mình trên ghế đá.

Anh Quang đã nổi cáu nói với chị Khánh thà không đi làm còn hơn, chứ đi như thế này đầu độc không khí quá. Anh nói, sự kiên nhẫn của người đàn ông chỉ đi kèm với tình yêu thôi, mà ở đây, "tôi với bà không phải là bồ bịch!". Chị Khánh, mắt ngày càng thâm, lơ đãng nói: "tôi biết, tôi không là gì với bất cứ ai!". Tuyền giảng hòa bằng cách lấy trà chanh cho hai người. Anh Quang hỏi Tuyền sao dạo này anh không thấy em uống trà nữa, Tuyền mà kể việc ly tách ở đây được rửa bằng bọt biển lau bàn thì mọi người lại trách "sao bây giờ mới nói", Tuyền bảo tại trà làm Tuyền khó ngủ trưa. Anh Quang lại nói với chị Khánh: "Thôi, về nghỉ đi, chừng nào bình tĩnh hãy đi làm!", xong, với dáng điệu chỉ huy anh bảo Tuyền: "Em đánh máy đi, anh và em gánh việc cho nó!".

Anh Quang đọc, Tuyền đánh máy, chị Khánh lặng yên. Không chịu về, dễ đến hai tiếng đồng hồ nặng nề như thế. Cuối cùng, chịu không nổi, anh Quang gắt: "Về hộ đi, chiều nay nghỉ, đằng nào cũng thứ bảy rồi!". Chị Khánh đứng vụt lên, đi thẳng xuống nhà. Anh Quang đợi chị đi khuất cầu thang, nhếch mép cười: "Không chịu nổi mấy đứa vác mặt thất tình ra đường!". Tuyền nói, sao hôm trước anh lại có vẻ thông cảm thế, lại còn đi nhậu...? Anh Quang cười khì, ném đầu mẩu thuốc vào góc tường: "Ai mà thông cảm mãi được!". Tuyền nói, nhưng em không thích thái độ của anh hôm nay. Tuyền lấy xe đuổi theo chị Khánh để chở chị về. Chị nói, chị mệt mỏi quá, về lại căn nhà một mình, chị không biết làm gì. Tuyền nói, em cũng thế, ở xa nhà, trong phòng khách sạn người ta thuê, em cũng không muốn làm gì dù rất nhiều việc, may mà ngoài này có Hương... Chị Khánh thêm, buồn nhất là khoảng năm rưỡi, sáu giờ tối, đúng không? Lúc mà ai cũng đã về nhà ăn cơm và mình thì không có một cuộc hẹn nào trước mặt... Tuyền nói, đúng rồi, cũng như thế với ngày chủ nhật. Chị Khánh buồn buồn, ngày mai chủ nhật, làm gì cho qua một ngày chủ nhật. Tuyền nói hay mình đi chùa không, ngôi chùa Hương hay dẫn em đi, cách xa thành phố, đẹp và vắng vẻ, với sư thầy cũng hút thuốc lá ngồi trông đội trùng tu...

***

Hai chị em thắp hương xong thì một bà vãi mời ra uống nước. Sân chùa, rơm rạ phơi đầy, nắng chói chang làm những bông mẫu đơn đỏ nhìn thêm nhức mắt. Chị Khánh, vẻ mặt thoát tục, ngồi gọt dưa chuột, nghe bà vãi rù rì lịch sử chùa. Tuyền đi vòng quanh, trong điện mát rượi, những cột gỗ mơ hồ ken két tiếng mọt nghiến, Tuyền định đi báo đội trùng tu nhưng hôm nay họ nghỉ, bên những bàn mộc, dăm bào ai đã vun thành đống. Tuyền bỗng nhớ những lần đi chùa cùng anh và Hương quá. Hương giày vải, váy hoa, ôm vai Tuyền bên bậc cửa để anh chụp ảnh. Tuyền muốn chiều về mình sẽ nhắn tin rủ mọi người ăn cơm niêu. Hương thể nào cũng trách: "Sao lại rủ trước? Sao không dền dứ?". Nhưng, Tuyền dền dứ làm gì cơ chứ, đây có phải mua bán đâu mà phải dền dứ? Đằng nào Tuyền cũng quay về Sài Gòn mà. Bây giờ, Tuyền xa nhà, Tuyền mỗi ngày trong khách sạn sợ những giờ cơm chiều một mình. Tuyền chỉ cần có người cùng ăn cơm trong những lúc xa nhà. Vả lại dền dứ làm gì; đêm qua, sau bao nhiêu ngày không tăm tích, anh đã gọi điện lại rồi. Anh gọi, giọng trách móc, chắc anh cay cú vì phải gọi trước. Tuyền buồn cười. ừ, ít ra Hương cũng có lý, nếu chiều nay Tuyền không rủ, kiên trì đợi hai, ba bữa thể nào anh cũng phải rủ Tuyền. Nhưng Tuyền muốn đi cơm niêu ngay chiều nay, Tuyền muốn có mọi người cùng đi ăn ngay chiều nay.

... Tuyền tha thẩn sang khu nhà thờ phụ lúc nào không biết. ở đây, đội trùng du chưa động tới, các bức tượng chưa bị sơn đỏ môi và tô trắng mặt, ngồi nhìn ra vườn nhãn rì rào lá. Mặt tượng như thể mặt những người từng sống trong làng. Tuyền không có cảm giác đang ở trong chùa. Tuyền ước có cái phản để nằm lăn ra ngủ. Hay là ra ngoài hè, nằm dài sau cánh cửa, trên đầu là nhãn che?... Ngoài hè mát, sau cánh cửa gỗ, có tiếng rì rầm, rồi tiếng con gái cười khúc khích, khúc khích, đúng giọng Hương. Tuyền đi ra, bước qua bậc cửa, bên hè, Hương chúm chím mút hoa dong riềng, còn anh đang xoe xoe một cọng rơm vàng mướt... Cả hai giật mình nhìn Tuyền. Hương gỡ rối nhanh nhẩu: "Sáng nay gọi đến thì mày đi mất rồi!". Tuyền bảo: "ừ, tao đi sớm". Anh lúng túng, hỏi; "Em đi với ai". "Với một chị buồn vì tình đang ngồi ngoài kia ăn dưa chuột." Tuyền trả lời anh rồi ngồi xuống cạnh Hương. Cái bực đá mát lạnh và vườn nhãn rì rào, rì rào. Tuyền mệt quá, Tuyền muốn nằm xuống ngủ. Tuyền nhặt một bông hoa dong riềng trên tay Hương mút thử, Hương bảo: "Ngọt không?", Tuyền gật đầu, mút thêm bông nữa, rồi không còn đắn đo gì nữa, Tuyền hỏi: "Chiều nay chúng mình đi ăn cơm niêu không?". Anh và Hương nhìn nhau bối rối không biết có nên nhận lời không.

Tuyền nằm xuống bậc đá mát lạnh và nhắm mắt để khỏi phải thấy cách họ trả lời... Tuyền dựa chân vào lưng Hương để Hương bình tĩnh lại. Tuyền chợt thấy mình chẳng còn dính líu gì đến nơi này cả. Tuyền nhớ nhà quá rồi. Tuyền mong đến sáng mai. Sáng mai, Tuyền mua vé về lại thành phố.

Phan Thị Vang Anh