Tuesday, 30 October 2012

3 bài thơ của Nguyễn Khắc Nhượng

Lời giới thiệu:
Anh Nguyễn Khắc Nhượng quê Quảng Nam, từng là Tổng thư ký tòa soạn báo Thanh Niên, đã về hưu, hiện sống tại Sài Gòn. Thơ anh, tôi chả biết nói thế nào cho phải, chính là cõi lòng anh, một người xù xì chứa tâm hồn đa cảm. Điều đặc biệt là, khi còn đương chức, không bao giờ anh lợi dụng cương vị của mình để in thơ trên báo nhà, kể cả báo tết, mặc dù điều ấy với anh quá dễ. Xin giới thiệu một số bài anh viết trong thời gian mấy chục năm qua:

Tháng giêng hương ảo

Trời tháng giêng tôi lạc dấu giày
Em về hôm trước buồn hôm nay
Khóc em một chút hương còn lại
Hương ảo vô thường lọt kẽ tay

Trời tháng giêng mây trời rất trắng
Tặng em một nửa trời tháng giêng
Mai kia tóc bạc lưng chừng núi
Còn nửa phương trời để ngóng em

Trời tháng giêng và cỏ tháng giêng
Thưa bàn chân đó nhớ hay quên
Cỏ non hóa bạc như màu tóc
Ta ngủ quên đời trong tóc em

Trời tháng giêng cùng lạc dấu giày
Em qua bên ấy buồn bên đây
Khóc em một chút hương còn lại
Hương ảo vô thường lọt kẽ tay...


Đợi ở lưng đồi

Ta đợi lưng chừng đồi
Tóc người như mây trắng
Ta mỏi chân đợi người
Lòng người đà thiếu phụ
Tóc người bay đầy trời
Vật vờ trên đầu núi
Ta mỏi chân đợi người
Lòng người không xuống thấp
Lòng ta dù vươn cao
Cũng chỉ lưng chừng đồi

Ta đợi lưng chừng đồi
Buổi mai mặt trời mọc
Ta mỏi chân đợi người
Mặt trời như gai độc
Ta nhói đau da thịt
Máu chảy lưng chừng đồi
Buổi chiều mặt trời xuống
Tâm hồn khát bao nhiêu?

Tâm hồn như vách núi
Dựng bên trời cheo leo
Bao giờ mây trắng xuống
Người ơi bao giờ mưa?

Ta đợi lưng chừng đồi
Buổi sáng nghe chim hót
Ta mỏi chân đợi người
Không còn nghe tiếng chim

Buổi chiều mặt trời xuống
Buổi sáng mặt trời lên
Tóc bạc gần nửa mái
Đợi lòng người già nua
Lòng thênh thang phiền muộn
Nhớ người mấy cho vừa

Vẫn còn tiếng chim kêu
Máu ta không ngừng giọt
Buổi trưa mặt trời cao
Chim cũng ngừng tiếng hót
Ta đứng lưng chừng đồi
Hay tay ôm mặt khóc

Tóc người bay đầy trời
Vật vờ trên đầu núi
Lòng người đà thiếu phụ
Đầu núi cao chia phôi
Ta đứng lưng chừng đồi
Giận hờn mình biết mấy!

Buổi sáng mặt trời lên
Buổi chiều mặt trời xuống
Ta đứng lưng chừng đồi
Chết dần trong mong đợi


Mộ ca

Nghe dòng nước chảy qua lòng mộ
Hương bụi theo về quê quán xưa
Miên man mưa giọt sầu xương thịt
Hồn cũng căm căm rét trở mùa

Lang thang cùng với mây trời cũ
Về đâu? Về đâu? Đời mang mang...
Khuya hôm ma khóc bên đường vắng
Xé buốt từng không tiếng thở than

Hồn phất phơ đầu cây ngọn cỏ
Mơ sáng chiều hôm vọng chốn nào
Đóm lửa canh tàn nơi quán trọ
Chút tình cố xứ có thương nhau

Chao ôi da thịt như sương khói
Ai có nghe lòng ai đớn đau!


Nguồn: Nguyễn Thông

Monday, 29 October 2012

ĐỖ TRUNG QUÂN NGỨA TAY

Thi sĩ Đỗ Trung Quân nói rằng chàng đang thất nghiệp, buồn quá, rảnh quá, ngứa tay làm một phát ra cái dưới đây. Có người lại làm thơ khen:
Lão Quân thất nghiệp ngứa tay
Làm ngay một nhát. Vẫn hay như thường!
Mời các bạn vào xem:



 


ĐỖ PHỦ

Một bài thơ viết đã lâu của Trần Mạnh Hảo

Đỗ Phủ
Trong chiếc đò nát như thời cuộc
Cơn đói làm ta say
Sông Tương như một niềm Kinh Thi ròng ròng nhựa chuối 
Ngọn lửa trong đầu ta đang đóng băng thành sáp
Nước Đại Đường không lớn hơn nắm cơm
Trời không đủ cho ta manh chiếu rách
Thơ gặt rồi ta xác lại thành rơm
Đêm lạnh sôi tóc
Ta nghe hàng triệu lá phổi đang hắt ra hơi gió cuối cùng
Gom thành bão trên đất này than khóc 
Mắt vua quan vẫn trợn trừng kiếm cung
Khi lẽ phải là thanh gươm giết chóc
Thì muôn sau lịch sử ắt điên khùng
Thịnh Đường, thịnh Đường
Ta đã thấy làm vua dễ hơn làm người
Thấy ngụy mặt trời
Thấy chân lý ve chai
Ôi chữ thánh hiền bò như cua cáy
Kẻ sĩ nhìn lên bằng mắt chuột chù
Chiến tranh để muôn chăn nằm goá gối
Bao rừng phong đổ máu xuống mùa thu
Ta đã ăn một vạn thỏi mực mà không hết đói
Thương thay núi Thái Sơn không biết thú đi thuyền
Bút ta rét sao câu thơ bốc khói
Suốt một đời ta tỉnh để trời điên
Ta muốn lội bộ về Nghiêu Thuấn
Hỏi Hứa Do tìm chỗ rửa tai
Hỏi hoa lê mùi cố quận
Nhưng thơ ta đã lạc mất dấu hài
Ôi những cơn mưa phùn trứng rận
Ta toàn mơ thấy mình là ai ?
Ai hát khúc “ Binh xa hành”
Khói từ chiến địa ngút thành xương khô
Rượu đầy hốc mắt lô xô
Nghìn năm ai biết dưới mồ ta say ?
Ta vịn vào đêm trơn tuột
Đừng bôi mỡ cừu vào tay ta
Ta ăn tuyết cả tuần không thấy buốt
Trời sao sa như vãi tấm cho gà
Ừ trời chỉ còn sao thôi
Vì trăng Lý Bạch bế đi rồi
Mắt ta chợt nảy nghìn đom đóm
Đâu biết là sao hay đóm rơi?
Xin bác đom đóm đừng lập lòe làm mắt ta rối rít
Bác đã dẫn đường trăm họ vượt đêm sâu
Bằng ánh sáng bác phát ra từ đít
Sao thơ ta phải thắp bác lên đầu?
TRẦN MẠNH HẢO
Sài Gòn 1983
 

Nhà văn Nguyên Ngọc trong mắt nhà giáo Nguyễn Đăng Mạnh

Bài trước, tôi giới thiệu 02 bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận định về Nguyên Ngọc, trong đó có câu văn rất nghiệp dư “Nguyên Ngọc là một Tố Hữu trong văn xuôi”. So sánh khập khiễng quá độ !  Bạn đọc có thể xem thêm các phản hồi về Trần Đăng Khoa
Bây giờ chúng ta thử xem một nhà giáo (Nhà giáo Nhân dân được nhà nước phong) sẽ nhận định ra sao về Nguyên Ngọc.

CHƯƠNG XX: NGUYÊN NGỌC
(Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)
Trong một bài chân dung viết về Nguyên Ngọc, tôi gọi anh là con người lãng mạn. (Nguyên Ngọc, con người lãng mạn).
Cũng có thể nói, Nguyên Ngọc là người của cái tuyệt đối. Anh không chấp nhận sự nửa vời, trạng thái lừng chừng. Phải tuyệt đối anh hùng, phải tuyệt đối trong sáng. Không phải anh chỉ nghĩ thế, mà còn sống như thế. Rất dũng cảm, thích mạo hiểm. Anh từng đi đánh thổ phỉ ở Tây Bắc. Từng đi ngựa theo một đoàn buôn thuốc phiện lậu từ Cao Bằng đi Lai Châu. Đi B dài cùng Nguyễn Thi. Nguyên Ngọc ở lại khu Năm, còn Nguyễn Thi thì vào tuốt Nam Bộ. Họ chia tay nhau bên một khu rừng xà nu bạt ngàn, hẹn trở về phải đi đường số một. Ở khu Năm, Nguyên Ngọc sống và chiến đấu như một anh hùng. Một nhà văn như thế thì tìm đâu ra nhân vật trong đời sống thực tế quanh mình. Mà nhất thiết anh phải viết về chủ nghĩa anh hùng. Đó là quan niệm thẩm mĩ của anh. Viết Đất Quảng, anh tìm được một nguyên mẫu mà anh cho là lý tưởng. Viết đến tập II, thì được tin cái anh nguyên mẫu nọ té ra cũng dao động, lập tức đốt ngay bản thảo.
Tìm đâu ra những con người tuyệt đối như thế? Phải bịa ra sao? Không, Nguyên Ngọc tìm lên núi cao và ra tận biển khơi. Anh tìm đến những con người như thuộc thời hồng hoang nguyên thuỷ, cái thời chưa có kinh tế thị trường, chưa có chuyện danh và lợi làm vẩn đục lòng người…Sống như tự nhiên, như tảng đá, gốc cây, con thú rừng. Ấy là Đinh Núp, Thnú ở Tây Nguyên, là Thào Mỵ ở Hà Giang, Mèo Vạc, là những chiến sỹ anh hùng trong Đường mòn trên biển…
Nguyễn Khải thường nhắc lại lời Nguyễn Minh Châu nói với Nguyên Ngọc khi Ngọc vừa trở ra Bắc sau 1975: “Bọn mình cố phấn đấu để trở thành anh hùng, còn ông thì cố phấn đấu để trở thành người bình thường”. Đầu óc Nguyên Ngọc chỉ có cái tuyệt đối, cái phi thường mới lọt vào được. Cho nên nói chuyện với anh, thấy anh toàn say sưa kể những chuyện như sử thi, như thần thoại vậy.
Anh cho bài viết của tôi về anh, đã nói đúng cái môi trường có tác động tới anh từ nhỏ: phố cổ Hội An và bãi biển Cửa Đại, nơi còn giữ được trong thời hiện đại không khí hoang sơ, hoang dã, với những con người rất đỗi hồn nhiên, trong sáng. Từ đó, năm 17 tuổi, cuộc kháng chiến đã đưa anh lên tuốt Tây Nguyên, lên tận đỉnh Ngọc Linh. Hồi ấy, tâm hồn lãng mạn của anh đã từng mơ ước gặp được một mối tình sơn nữ.
Nguyên Ngọc trên đường đời đã vớ được cây xà nu. Anh liền lấy nó làm nhân vật tư tưởng của anh. Anh đích thực là một cây xà nu, thẳng băng, nhọn hoắt, chọc thẳng lên trời. Con người như thế, tuy người ta rất phục, nhưng không ai chịu nổi, không ai theo được. Sống thế mệt quá, căng thẳng quá! Anh mà làm lãnh đạo thì kể cũng khó đoàn kết được quần chúng. Hôm tôi trò chuyện với Nguyễn Đình Thi trên đường đi Tam Kỳ (năm 2000), Nguyễn Đình Thi cho biết, hồi bọn Tàu đánh ta ở biên giới, Nguyên Ngọc lúc ấy làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, định đưa anh em lên mặt trận biên giới đấy.
Một con người không biết mềm mỏng trong giao tiếp, rất cứng. Anh rất ghét Nguyễn Đình Thi, cho là thằng giả dối. Trong hội nghị, hễ Thi phát biểu, anh bỏ ra ngoài. Anh rất khinh Huy Cận. Anh cho con người nhân cách bẩn như thế viết hay sao được. Người ta nói, thơ Huy Cận trước cách mạng hay đấy chứ! Anh nói dứt khoát: “không hay!”. Anh rất ghét bọn chấp hành Hội nhà văn từ khoá năm, khoá sáu và tờ Văn nghệ của Hữu Thỉnh. Văn nghệ đưa đến, anh vất ngay vào sọt rác. Hội cấp tiền bồi dưỡng sáng tác cho anh, anh từ chối. Nhà anh ở khu tập thể quân đội số 8 – Lý Nam Đế. Từ cổng đi vào gặp rất nhiều nhà văn quen thuộc. Anh đi một mạch thẳng, chẳng trò chuyện với ai, khinh tuốt.
Nguyễn Văn Hạnh nói, Nguyên Ngọc không có tâm lý làm nhân vật số hai. Anh chỉ có thể làm nhân vật số một. Tất nhiên Tố Hữu rất ghét Nguyên Ngọc. Tố Hữu từng nói với Tô Hoài: “Nguyên Ngọc, cứ để nó làm bí thư đảng đoàn thì nó sẽ làm vua”. Nguyên Ngọc thì bướng. Tố Hữu thì hách, tất nhiên rất ghét nhau.
Hồi Nguyên Ngọc làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, anh tổ chức một cuộc hội nghị nhà văn đảng viên. Anh đưa ra một bản đề cương chống giáo điều, đổi mới văn học. Tố Hữu đến, lên phát biểu đã phê phán quyết liệt bản đề cương, coi là hiện tượng ngược dòng. Vậy mà khi kết luận hội nghị, Nguyên Ngọc vẫn khẳng định bản đề cương đã được hội nghị nhất trí tán thành. Rõ ràng là bất chấp thái độ Tố Hữu… Tối hôm đó ở 4 Lý Nam Đế (Trụ sở Văn nghệ quân đội), Nguyên Ngọc đang ngồi với Nguyễn Khải, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trọng Oánh, Giang Nam, thì Chế Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo đến: “Tôi khuyên các anh đến xin lỗi anh Tố Hữu, tôi đưa các anh đến”. Không ai nói gì. Nguyên Ngọc trả lời: “Cám ơn anh, tôi tự thấy chả có gì phải xin lỗi cả. Còn nếu cần đến anh Tố Hữu thì tự tôi đến cũng được, không cần anh phải dẫn đi. (Chế Lan Viên ghét Nguyễn Đình Thi, muốn đưa Nguyên Ngọc lên để hạ Nguyễn Đình Thi. Vì thế không muốn Nguyên Ngọc đổ).
Nguyên Ngọc yêu ghét rất phân minh. Người anh ghét chủ yếu là những nhân cách xấu: Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Đào Vũ, Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ… Anh rất quý Trần Độ, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hoàng Ngọc Hiến…
Nhưng Nguyên Ngọc hoàn toàn không phải là con người khắc khổ. Tôi bia bọt với anh nhiều lần. Anh sống rất thoải mái. Có chất nghệ sĩ. Tô Hoài từng đi một chuyến công tác với Nguyên Ngọc lên Tây Bắc. Ông nhận xét, Nguyên Ngọc về tình cảm thì mềm, chỉ lý luận và cách ứng xử thì cứng. Nguyên Ngọc là đối tượng hấp dẫn của một cô gái Mèo xinh đẹp tên là Vàng Thị Mỹ ở Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang. Cô làm phiên dịch cho bộ đội. Tô Hoài nói, ba mươi năm gặp lại Vàng Thị Mỹ, thấy vẫn đẹp. Cô ghi vào cuốn sổ tay của mình: “Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng là tên một tác phẩm của Nguyên Ngọc). Chắc nhớ và yêu Nguyên Ngọc lắm mới viết như thế. Và Nguyên Ngọc chắc cũng yêu cô. Vì anh tả Thào Mỵ đẹp tuyệt vời, đẹp như tiên “Khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên đỉnh Săm Pun…” Văn như thế thì cũng đa tình đáo để. Cho nên, Nguyên Ngọc tư tưởng rất cấp tiến, thích những lý thuyết mới mẻ, cởi mở. Rất ghét giáo điều. Yêu cầu dân chủ và đổi mới thật sự. Cho nên Nguyên Ngọc tán thưởng Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Chiều chiều, Ba người khác của Tô Hoài…
Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải là hai tính cách đối lập. Một đằng rất lý tưởng, rất lãng mạn. Một đằng thiết thực và tỉnh táo. Một đằng dũng cảm, một đằng thì nhát. Nhưng Nguyên Ngọc thích Nguyễn Khải vì Nguyễn Khải chân thật.
Nguyên Ngọc và Tô Hoài cũng là hai cực đối nghịch. Một đằng quan niệm con người là con người, tầm thường vậy thôi. Một đằng quan niệm con người là thiên thần, là thơ, là lý tưởng. Nhưng họ gặp nhau ở tư tưởng cấp tiến. Nguyên Ngọc nói với tôi nhiều lần: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ. Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào”.
Hiện nay Nguyên Ngọc đang giúp Quảng Nam xây dựng một trường Đại học dân lập ở Hội An. Tôi hỏi anh, xây dựng trường theo kiểu gì? Anh nói vắn tắt: “Theo kiểu Mỹ”. Nguyễn Khải cho là ảo tưởng, là phiêu lưu. Nguyễn Văn Hạnh thì nói: “Nguyên Ngọc có thể gọi là một nhà tư tưởng, có thể đặt tên phố như một danh nhân. Nhưng quản lý một trường học thì không được.” Nguyên Ngọc mời anh làm hiệu trưởng. Anh từ chối. Nguyên Ngọc trước sau vẫn là một con người lãng mạn.
Láng Hạ, 9.1.2008.
Nguyễn Đăng Mạnh

Nguồn: giangnamlangtu

Phố núi


Vũ Hữu Đinh

Phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật gần

anh khách lạ đi lên đi xuống

may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân

đi dăm phút đã về chốn cũ

một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng

em Pkeiku má đỏ môi hồng

ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông

nên mắt em ướt và tóc em ướt

da em mềm như mây chiều trong

xin cảm ơn thành phố có em

xin cảm ơn một mái tóc mềm

mai xa lắc trên đồn biên giới

còn một chút gì để nhớ để quên.

Những ngón tay thừa

K Lan

giữa bản valse đầy nắng
thấy mùa thu về trong quán nhỏ
vai lí lắc rung theo điệu múa cuối cùng của giọt nước
những nhịp điệu gõ đều khiến diệp lục lạc đường
đổ úa vàng vào đời chiếc lá
góc quán nhỏ mà tiếng cười lưu lạc
vĩ thanh đang dạo chơi
bằng bước chân mang hình lục giác
đôi khi thành phố tự mình dàn dựng một buổi diễn
không cần tiếng vỗ tay đưa tang  và tiếc buồn cho đoạn kết
muốn chạy theo anh bằng những bước đã tự trầm
có lẽ chỉ một chiều thôi
đưa tay chạm nắng
rướn gót thơm lên cho dấu ngày thường trú
giọt chi đó cứ thẳng thớm mà rơi không cần vòng vo mãi
một mai thức dậy giữa căn phòng và muốn nghe loài mãnh chúa hát
những lời năm cũ đã bị ăn mòn
em biết hờn ghen trên cả cung thương sủi màu mây trắng
không ngờ nắng còn vô tư đến thế
giờ ngón tay nằm nghe áp thấp chuyển slow

Nguồn: Da màu

Saturday, 27 October 2012

ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA

Phạm Ngọc Thái

Trời không mưa áo em đâu có ướt
Chỉ ướt lòng em, cô gái nhỏ của anh!
Em ngả vào anh mà hình như có khóc…
Tiếng con tim thật rõ bên mình.


Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng
Buổi cuối cùng em đến để chia tay
Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn
Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi?

Kìa không mưa mà áo anh lại ướt
Mùa thu đi… sao nắm mãi bàn tay?
Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát
Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay…

Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ
Phố vắng em buốt giá cả canh dài
Em dại lắm lấy chồng làm chi vội
Đưa em sang sông rồi lòng mới biết đã yêu ai!

Ta lại bước lang thang trên phố ấy
Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi
Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai…

Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến… đã chia tay?


                                 Hà Nội - Đêm 19/11/2010

Thursday, 25 October 2012

Ba người trong quán mưa




Từ lúc gặp lại chị đến giờ nhỏ cứ thao thao bất tuyệt kể về tình yêu của mình với một anh chàng tên K nào đó. Nhỏ kể chuyện tình yêu như kể lại một bộ phim truyền hình Hàn Quốc nhiều tập, nhiều tình tiết rối rắm. Mà vì rối rắm quá nên nhỏ chỉ nhớ được khúc đầu và khúc cuối của phim thôi. Còn khúc giữa không biết vì vô tình hay cố ý nhỏ quên chẳng đả động gì đến. Đúng lúc ngoài đường phố mọi người đang nháo nhác chạy mưa thì nhỏ kể đến đoạn nhỏ gặp K khi đang chen lấn mua hàng giảm giá trong siêu thị. Anh Khương- bạn trai chị nghe xong thì cười bảo:
-Hai người gặp gỡ trong hoàn cảnh lãng mạn quá cơ!
Chị hết nhìn nhỏ lại quay sang nhìn ông bồ tủm tỉm cười:
-Anh Khương không biết đấy thôi. Con nhỏ tài săn hàng khuyến mãi lắm. Cứ chỗ nào có hàng giảm giá là sà vào bằng được kể cả có sắp muộn giờ làm hay trời có sắp sập đi chăng nữa.
-Hèn chi!
Nhỏ che miệng cười khúc khích, rồi lại kể tiếp đoạn đầu tình yêu đầy hạnh phúc của mình. Vừa kể nhỏ vừa bấm từng đốt tay tính rành mạch từng kỉ niệm. Nào thì kỉ niệm mùa đông hai đứa đi ăn kem tràng tiền ngoài bờ hồ Lúc nổ máy xe ra về do mải nói chuyện mà K không biết rằng nhỏ vẫn chưa kịp leo lên xe, bỏ nhỏ lếch thếch đi bộ một đoạn dài. Kỉ niệm Hà Nội mùa hoa điệp, K rất kiên nhẫn lẽo đẽo làm phó nháy cho nhỏ và tụi bạn. Kỉ niệm mùa đông hôm trời mưa K chở nhỏ đi làm. Cái áo mưa của K bị thủng một lỗ ngay giữa lưng, nhỏ ngồi sau cứ nhằm đúng cái chỗ thủng mà hứng mưa đổ vào cho ướt sũng rồi cười khúc khích. Nhỏ kể đến đây thì anh bật cười quay sang nhìn chị bảo:
-Cái này thì giống em quá nhé! Hèn chi mà hai chị em lại thân thiết nhau đến thế. 
-Nhưng mưa Sài Gòn thì đỏng đảnh hơn. Chắc tại vì mưa đỏng đảnh  nên anh cũng không đủ kiên nhẫn được như K.
-Thôi nào! Em không thấy anh vẫn ngồi đây bên em sao?
Nhỏ không quan tâm đến mấy lời giận dỗi vu vơ của chị. Nhỏ mải nhìn Khương cười, nụ cười hối lỗi ấm áp và đáng yêu đến lạ. Rồi nhỏ nói bâng quơ như thể nói với chính mình “ừ! Cả em và chị đều thích mưa hèn chi lần nào chị gọi cho em cũng đều nghe thấy mưa rơi lạnh buốt bên tai”. Anh định châm lửa hút thuốc nghĩ thế nào lại thôi. Chị thả những viên đá nhỏ cuối cùng vào cốc, khoáng leng keng…leng keng… Nhỏ gõ mười búp măng xuống bàn, nhịp nhàng như một người nghệ sỹ lướt trên từng phím đàn. Ngoài kia mưa trắng một màn trời, mưa đã rất lâu mà con người vẫn không thôi nhốn nháo…

                                             * * *
Chị gục đầu xuống bàn, nghiêng mắt ngắm mưa chăm chú như một đứa trẻ. Thi thoảng chị lại hỏi một câu, buông thẫn thờ giữa cái không khí trầm lắng, ảm đảm của quán xá ngày mưa. Ba người ngồi bên nhau, đối thoại một cách rời rạc nhưng không hiểu sao không ai muốn đứng dậy để kết thúc cuộc gặp gỡ này.
-Không biết bao giờ mưa mới tạnh?
-Có thể là tí nữa. Cũng có thể là đến đêm chị ạ.
-Dù sao cũng chẳng biết làm gì cho hết tối nay. Cứ mưa đến đêm cũng chẳng sao- Khương thủng thẳng nói.
Nhỏ nghe thấy một tiếng thở dài. Chắc là của chị. Chị dường như không chịu nổi sự im lặng của ba người nên bảo:
-Kể tiếp mấy khúc tình yêu của em đi cưng!
-Ờ! Hay em kể khúc cuối chị nghe nha! Cũng mùi mẫn phết!
-Happy ending chứ gì? Cưới luôn đi để chị với anh Khương còn kịp ăn cỗ trước khi bay về Sài Gòn. Mà mùa này có phải là mùa cưới không em?
Khương xoay xoay tách cafe nhìn chị bảo:
-Mùa nào chẳng là mùa cưới. Yêu thì cưới thôi chứ hơi đâu chờ tháng chờ năm cho mệt.
-Thế sao yêu nhau bao lâu rồi mà chưa thấy khi nào anh tính chuyện cưới em?
Nhỏ cười:
-Mùa này là mùa hoa phượng. Cháy đỏ cả một góc trời rồi tàn lụi. Hình như tình yêu và hôn nhân cũng thế. Cứ đắm đuối hết mình rồi đến một ngày tự nhiên giật mình vì ngoảnh lại chẳng thấy bóng dáng của nhau hiển hiện trong đường trái tim ấy nữa.
Chị rời mắt khỏi những hạt mưa, ngoảnh lại nhìn nhỏ:
-Trong khúc cuối của tình yêu thì K của em đã đi đâu sao?
-À vâng! Đã đi sang một hướng khác chị ạ.
-Thế mà…chị cứ tưởng hai người đã tính chuyện cưới hỏi cơ đấy.
-Thì hẳn…Nhưng ngay cả khi hôn nhân cũng chỉ là một tờ giấy kết hôn thì có gì mà giằng níu nhau khi hai con tim không còn cùng nhịp đập.
-Là lỗi của K sao?
Khương cười:
-Lỗi của ai thì chẳng quan trọng, duyên số có thế thôi. Có muốn níu kéo cũng chẳng được, cứ coi như người ta không là của mình. Giằng níu trong tình yêu là thứ giằng níu kinh khủng nhất.
Nhỏ cười, nhìn Khương bằng ánh buồn héo hắt. Có mấy khi nhỏ buồn đến thế đâu. Còn chị vẫn nhìn chăm chú vào ô cửa sổ ướt nhòa mưa rồi bất chợt hỏi Khương:
-Anh nói nghe như thể anh đã hoặc đang phải trải qua điều khủng khiếp ấy không bằng.
Khương không nói gì quay sang nhỏ hỏi:
-Em chắc vẫn còn yêu K nhiều chứ?
-Nhiều như một thói quen. Em đã quen có K bên cạnh bốn năm rồi giờ không dễ gì quên được đâu anh.
-Cũng chẳng sao. Thực ra thì tất cả chúng ta đều cần có thời gian để mà quên mà nhớ.

                                         * * *
Có lẽ thấy ba người ngồi đã khá lâu, trời đã tối mà cơn mưa thì vẫn dai dẳng không ngớt chút nào. Nên một nữ nhân viên phục vụ bàn lại gần lịch sự hỏi:
-Quý khách có muốn dùng bữa tối tại đây không ạ? Nhà hàng của chúng tôi ngoài phục vụ đồ uống còn kiêm luôn phục vụ các bữa ăn nữa ạ.
Chị nói chị muốn ăn phở Hà Nội. Anh chọn mì xào. Nhỏ chọn một đĩa cơm rang thập cẩm. Ngồi nhìn nhỏ ăn một cách ngon lành, anh cười bảo:
-Biết thế anh cũng chọn cơm rang như em để ăn có phải hay không.
-Mì xào cũng ngon mà. Nếu không em gọi món khác cho anh nhé!
-Mì xào nhiều dầu mỡ quá không tốt cho cho anh. Thôi khỏi! Anh nói vậy thôi chứ anh dạo này chắc do ăn nhiều đồ béo nên anh mắc bệnh ngán ăn rồi.
-Tại sao không chọn phở? Anh không biết là phở Hà Nội rất ngon sao?- Chị hỏi.
-Phở ăn không chắc dạ. Mà anh cũng không thích. Không phải cứ cái gì người ta khen mình cũng thấy ngon.
Chị không nói gì, khẽ cười, gắp từng sợ phở ăn nhẩn nha như trẻ biếng ăn. Nhỏ nhìn chị ăn mà nghĩ nếu nhỏ là đàn ông chắc là nhỏ sẽ yêu chị đến mê mệt mất. Chị đẹp. Nét đẹp đằm thắm của gái xấp xỉ ba mươi. Điểm nhấn trên khuân mặt thanh tú ấy phảng phất nỗi buồn của đôi mắt hồ thu. Đôi mắt ấy từ nãy đến giờ thi thoảng vẫn lặng hướng ra ngoài cửa sổ chớp mưa. Nhỏ muốn thử chạm vào nỗi buồn man mác đẹp đến thánh thiện ấy. Bởi nhỏ không tin rằng trên đời lại có người con gái đẹp mỏng manh như chị.
Nhỏ quen chị cách đây ba năm khi cùng đi chung trên một chuyến tàu Bắc Nam. Chị ra bắc thăm mẹ và em còn nhỏ thì trở về sau một chuyến đi du lịch ngắn ngày trong Sài Gòn. Chỉ kể rất nhiều điều về mẹ bằng thứ ngôn ngữ của tình mẫu tử thiêng liêng. Chị yêu thương và tôn thờ người mẹ đã chịu nhiều gian truân vất vả để giữ gìn được hạnh phúc của mình. Chị bảo:
-Mẹ chị là con gái miền Tây, không quen bon chen cũng chẳng giỏi tính toán mà khi theo chồng ra Bắc phải học hỏi mọi thứ mới có thể làm dâu con miền Bắc được. Mười mấy năm rồi năm nào chị cũng ra thăm mẹ. Giờ mẹ chị đã già rồi, tóc muối, mắt hằn dấu chân chim, hàng ngày vẫn nhắc về một thiên đường ở thế giới bên kia mờ ảo.
-Mẹ chị từng lỡ dở một đời chồng?
-Ừ! Số mẹ chị lận đận. Trước lấy bố chị nhưng chung sống không hạnh phúc. Sau khi ly hôn thì mẹ nuôi em trai còn chị sống cùng bố. Mẹ chị khổ nhiều vì yêu thương nhưng đã yêu ai là vun vén hết lòng. Sau này chị cũng sẽ yêu như mẹ.

                                              * * *
Đã ba năm trôi qua, năm nào nhỏ cũng gặp lại chị vào mùa mưa như thế này. Nhưng hai năm trước chỉ có hai chị em ngắm mưa, chị không hỏi về  tình yêu của nhỏ. Nên nhỏ cũng không có cơ hội kể về khúc đầu, khúc cuối của chuyện tình giữa nhỏ với K. Hai năm trước cũng không có Khương ngồi đây. Có lẽ vì thế mà mưa của hai mùa trước cũng nhẹ nhàng hơn. Bất chợt nhỏ đưa mắt nhìn Khương, thoáng chút bối rối Khương ngoảnh vội ra cửa sổ. Chị là người bắt gặp khoảnh khắc ấy đúng lúc quay lại gọi “Nhỏ ơi!”. Ba sự lúng túng gặp nhau trong một vài giây bất động. Cũng may mà tiếng đổ vỡ cốc chén từ bàn bên cạnh, tiếng người mẹ quát đứa con nhỏ nghịch nghợm đã phá tan tình huống khó xử ấy. Nhỏ vội vàng hỏi chị:
-Chị bảo gì em vậy?
Chị vẫn còn chưa hết luống cuống khi nhìn thấy những ngón tay của nhỏ đan vào nhau một cách vụng về. Chị giả bộ nhìn quanh quán rồi vỗ nhẹ vào tay nhỏ hỏi:
-Quái lạ! Chị chẳng nhìn thấy lối ra nhà vệ sinh đâu cả.
-À! Quán này thiết kế nhà vệ sinh ở bên ngoài. Chị phải đi vòng ra ngoài, nhà vệ sinh gần khu cây cảnh đó chị. Chị nhớ đi nép vào hiên không mưa hắt ướt hết đó.
Nhỏ có lẽ đã không hiểu rằng những cái vỗ nhẹ nhàng vào tay nhỏ khi nãy thật ra là những cái vỗ về của chị. Chị nhận ra trong ánh mắt của Khương dành cho nhỏ có chút thương mến, rung động cũng giống như lần đầu tiên Khương nhìn chị cách đây hai năm. Chị cũng thoáng chốc buốt tim trong cái bối rối rất đàn bà của Nhỏ, chị cũng đã từng như thế. Chị bước vào nhà vệ sinh tô đậm thêm môi son, chải lại mái tóc xoăn uốn lọn buông hững hờ rồi thong thả bước ra. Lúc này cơn mưa vẫn còn dai dẳng, một bên vai chị bị mưa táp vào ướt nhẹp. Lúc quay lại chỗ ngồi Khương tút giấy trong hộp đưa cho chị bảo lau đi cho đỡ ướt. Chị cười…
Chị liếc nhìn đồng hồ, lẩm bẩm dự đoán chắc ít nhất cũng phải chín giờ tối thì may ra mưa mới ngớt. Cũng không thể tự nhiên đứng dậy đòi về giữa trời mưa gió mịt mùng trong khi chẳng có việc gì quan trọng. Cũng chẳng có cuộc điện thoại nào gọi đi mà nhỏ và Khương thì dường như vẫn muốn còn nán lại. Biết làm gì để giết thời gian trong lúc chờ mưa tạnh? Sao tự nhiên với chị cuộc gặp gỡ lại trở lên gượng ép đến thế? Ừ! Chắc là tại có thêm sự xuất hiện của Khương, nếu không thì hai chị em đã bình yên ngồi ngắm mưa và kể với nhau đủ thứ chuyện đàn bà. Thiếu gì chuyện để nói với nhau, nhưng có thêm Khương thì những câu chuyện hào hứng ấy lại trở lên vô duyên hơn bao giờ hết. Vậy ba người thì sẽ nói chuyện gì? Chị nghĩ ngợi rồi quay sang nhỏ bảo:
-Vậy còn khúc giữa tình yêu của em thì sao? Vì lý do gì mà em và K lại chia tay khi đã từng yêu nhau nhiều đến thế?
Nhỏ dùng ngón tay chấm nước rồi miết lên bàn chậm chậm. Không vội trả lời câu hỏi của chị, nhỏ nhún vai bảo:
-Chị thử đoán xem. Theo chị thì vì sao chứ?
-Chắc là tại em tham công tiếc việc nên không còn thời gian chăm chút cho tình yêu như xưa nữa?
-Chị sai rồi. Với em tình yêu ấy vẫn nồng nàn đến tận phút cuối cùng.
-Vì em không còn xinh đẹp và quyến rũ như xưa chăng?- Khương hỏi.
-Anh nghĩ thế sao? Vậy bây giờ ngồi trước mặt anh, nói thật đi, dưới con mắt của một người đàn ông như anh thì em có còn sức quyến rũ không?
Anh lúng túng ngoảnh sang nhìn chị, chị cười bảo:
-Ý anh ấy bảo em vẫn còn sức hấp dẫn lắm.
-Vậy thì lý do ấy không hợp lý nhé!
Chị chống cằm suy nghĩ một lúc rồi bảo:
-Vậy thì chắc chắn vì một người thứ ba đúng không?
Nhỏ cười:
-Ừ thì… trong các cuộc chia tay đến phần nửa nguyên do là có bóng dáng của người thứ ba. Tuy nhiên câu trả lời của chị đúng nhưng chưa đủ.
Khương hỏi:
-Em đã mất K đúng lúc em dành nhiều tình yêu thương và kì vọng vào K nhất đúng không?
-Sao anh biết?
-Ừ thì… Tại nỗi buồn trong mắt em đã nói lên điều đó.
Chị khẽ cười khi phát hiện ra Khương và nhỏ khi nói chuyện hơi hướng, giọng điệu rất giống nhau. Chị cũng đang tự hỏi không biết Khương đọc được điều gì trong mắt chị bây giờ? Hay là Khương còn đang bị hút vào câu chuyện tình của nhỏ. Nhỏ không để ý đến phút suy tư của chị bởi nhỏ đang mải kể cho Khương nghe khúc giữa chuyện tình yêu của nhỏ. Nhỏ bảo:
-Chuyện rất đơn giản thôi. Trong một chuyến đi nghỉ mát do công ty tổ chức, K đã phải lòng một cô gái khác. Họ gặp nhau có hai ngày trên biển, họ nói với nhau những gì, nghĩ cùng nhau những gì, thậm chí là làm gì cùng nhau em cũng thể biết. Chỉ biết rằng sau chuyến đi đó trở về em và K đã chia tay. Có thể là họ chỉ cùng ngồi ngắm hoàng hôn bên bờ biển. Cũng có thể là K đã lau nước mắt cho cô ấy… Điều đó rồi cũng có quan trọng gì đâu. Chỉ biết rằng tình yêu là điều rất mong manh. Bỗng một ngày ta mất nhau là vì thế…
Khi nhỏ kết thúc câu chuyện thì ngoài trời cũng tạnh mưa. Trong quán những vị khách đợi lâu đều vội vã trở về bên gia đình hay một vòng tay ấm. Đến lúc này nhỏ dường như mới bừng tỉnh khỏi miền kí ức. Nhỏ thấy sốt ruột vì đống quần áo phơi trên sân thượng không ai rút hộ vào và mấy chậu cây cảnh để chênh vênh bên cửa sổ. Nhỏ hỏi chị còn ở lại Hà Nội lâu không? Chị nói chắc là về sớm vì cũng còn nhiều việc tồn đọng trong đó cần giải quyết. Khương ngỏ ý muốn xin số điện thoại của nhỏ để tiện liên lạc. Nhỏ nhìn dáng chị bước nhanh về phía trước, phía hàng cây đang trút nốt những hạt mưa còn đọng lại khi trận gió vừa thổi đến. Lúc này nhỏ mới nhận thấy đôi vai bé nhỏ của chị khẽ run lên trước gió, hình như đợt này ra Bắc chị gầy hơn. Nhỏ không trả lời Khương mà bước nhanh vừa kịp níu lấy bàn tay chị lúc chị định sang đường trong dòng xe cộ ồ ạt sau mưa. Nhỏ bảo:
-Đợi đèn đỏ rồi sang chị ạ.
Đúng lúc ấy thì đèn đỏ bật. Nhỏ nắm lấy bàn tay chị thong thả bước sang đường. Bỏ lại Khương phía sau vẫn còn đang đứng loay hoay với mớ suy nghĩ rối rắm và lạc lõng của mình. Cho đến khi chị ngoảnh lại với gọi “Anh ơi!” thì Khương mới vội vã sang đường…


VTHT

Đóng thế





“Tôi lao vào giữa đám đông, nhoài người về phiá chiếc quan tài người ta đặt mẹ tôi trong đó. Phía trên là bát cơm người ta đắp đầy ú ụ cùng với một quả trứng. Còn tôi thì vùng vẫy như một con thú bị chặt mất tay chân, máu chảy mà chưa chết. Ánh nắng, mặt trời thì cứ rọi sâu vào mắt, nung nấu và bức bách. Nhưng tôi không thể tiến về phía mẹ dù chỉ nửa bước.
-Mẹ ơi! Đông lắm! đông lắm, họ kìm kéo con này. Đông lắm!
Rồi tôi thấy chân tay mình bủn rủn, không chịu được nữa rồi. Tôi đang khụy xuống dần dần.
Giật thót mình một cái, một đường máu lạnh chạy từ đầu tôi tới gót chân. Tôi nhận thấy ngực mình đang rơi vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mơ. Tôi cố dùng hết sức lực để cử động ngón tay, rõ ràng tôi thấy mình cử động, nhúc nhích, rồi tôi đứng dậy, vén màn ra khỏi giường. Tôi chạy, chạy đi đâu không biết. Thế mà hóa ra tôi vẫn nằm im bất động”

Tôi luôn nghĩ tôi là người đóng thế các nhân vật của chính mình. Tôi tạo ra chúng với những hỉ, nộ, ái, ố…quằn quại trong cái đau mà chúng không thể nào dự đoán hay trốn thoát. Đôi khi với công việc ấy tôi thấy mình là kẻ đáng thương. Đôi khi thấy mình là kẻ độc ác. Đôi khi thấy mình là kẻ vô vị hoặc chẳng ra gì. Tôi là một diễn viên xuất sắc nhìn theo một khía cạnh nào đó.
Anh nhăn trán sau khi đọc xong truyện ngắn của tôi. Anh lúc nào cũng khiến người ta cảm thấy anh đang quan tâm đến vấn đề được nói đến, anh sẵn sàng dành công sức, tâm huyết nếu người ta cần. Anh là thế, ít ra là đến thời điểm hiện tại.
-Sao em không cho nhân vật này chết đi?
-Tại sao lại phải chết.
Anh làm điệu bộ với cái vẻ: “Chết là hết chuyện, mọi việc sẽ suôn sẻ hơn”. Tôi im lặng và tự hỏi mình: “Ừ nhỉ, tại sao mình lại không cho nhân vật ấy chết?”. Câu hỏi ấy lập tức được gạt phăng ra “mình có quyền được tạo ra nhân vật của mình theo một lối riêng”. Chấm hết. Tôi lao vào giữa dòng người đông đúc trong thành phố, tuyệt nhiên không còn cảm thấy vướng bận gì về vai diễn của mình. Bởi ngoài đường còn có quá nhiều vai diễn.
Tôi diễn một người có văn hoá để không vượt đèn đỏ, không chửi bậy lúc tắc đường, không vừa đi vừa nghe điện thoại và cố gắng để không săm soi những người bên cạnh mình. Tôi diễn vai một kẻ đủ tỉnh táo, tinh ranh để chẳng bị thằng cướp đường sơ múi của mình bất cứ cái gì, kể cả là một cái nhìn lãng phí. Tôi đóng tất cả các vai có thể cho đến khi tôi về đến phòng trọ, với một niềm mong mỏi rằng không gặp bất cứ ai để khỏi phải thay trang phục diễn. Thế thôi.
Khi nằm một mình trong nhà trọ chưa đầy 8m2, chật chội, nóng nực nhưng dù sao tôi cũng cảm thấy thật thoải mái. Ít nhất là tôi được yên thân. Cũng có nhiều khi tôi cười một mình, khóc một mình, hoặc vừa cười vừa khóc. Tôi nghĩ khi ấy tôi mới thật là chính mình.
                                                * * *

Tôi viết. Viết trong nhạt nhoà nước mắt mảng màu kí ức của riêng mình:
Con nhớ vào một buổi chiều mẹ rẽ nắng sang sông
Mẹ đi lấy chồng
Mẹ làm vợ lẽ
Có mưa bong bóng đâu mà con mất mẹ
Gần hai mươi năm
                                      nắng vẫn buốt tim người.
Không nghĩ rằng có lúc mình lại đau như thế, cơn đau đến tức ngực và ngộp thở. Muốn phá tan bốn bức tường xung quanh, muốn phá tan mảng sông đầy nắng. Muốn chạy nữa…Chạy mãi…trên bờ cát trắng để những dấu chân in ngược tìm thấy mẹ. Nỗi hận đã làm tôi không một lần đủ sức  sang sông tìm mẹ, gần hai mươi năm trời tóc đã đổ sương giăng…
Không biết rằng đã có biết bao nhiêu chuyến đò giăng trong mắt tôi vời vợi đắng cay mỗi lần trở về thăm quê cũ. Tôi biết mình đang chờ đợi trong mỏi mòn hờn giận, thứ hờn giận mà tôi luôn tự phủ nhận, luôn chối bỏ.
Trong các trang viết của mình tôi thường hay viết về những đứa trẻ không có mẹ, nhưng không bao giờ tôi giải thích sự vắng mặt của người mẹ. Như là đối với tôi việc không có mẹ là một điều tất nhiên, chẳng có gì là lạ cả. Hay tôi viết về sự hoảng loạn của những đứa con vẫn mơ giấc mơ hoang mất mẹ. Sự hoang mang đã ăn vào nhân vật của tôi sâu lắm… Có đâu đó những thắc mắc của người đọc, có đâu đó vài lời giải thích bâng quơ…Tất cả đều nhạt nhoà, tất cả đều chẳng làm tôi thay đổi.
Bói.
Lang thang quanh bờ hồ. Không có việc gì làm, thấy có một người đàn bà ngồi xem bói. Nổi hứng, thế là bói. Thầy phán những điều rất vòng vo, ngoằn nghoèo, kể cả những lời hoa mĩ mà văn chương của tôi chưa khi nào dùng đến cả. Thầy bảo:
-Cái số này là phải hai lần đò mới ổn. Nếu không thì ở goá.
Cười.
Thấy bảo:
-Lấy chồng muộn thôi, thì còn may chăng yên ổn.
Cười. Hỏi:
-Yên ổn là sao thưa thầy?
-Là chỉ phải đi một lần đò thôi, chỉ có điều tình cảm vợ chồng không được mặn nồng cho lắm.
Phá lên cười.
Thầy bảo:
-Cười là mất thiêng.
Im tịt. Không phải vì sợ.
Thầy lại bảo:
           -Con mồ côi phải không?        
Gật đầu. Không hiểu sao tôi lại gật đầu không một phút đắn đo. Chợt thấy buồn. Bố tôi vẫn còn. Mẹ tôi vẫn còn. Bố tôi chỉ đi theo một người đàn bà. Mẹ tôi chỉ đi theo một người đàn ông. Tôi ở lại một mình, thế có phải là mồ côi không nhỉ?
Tự nhiên sống mũi cay cay. Bảo thầy:
-Thôi thầy ạ. Hết bao nhiêu tiền con gửi, thầy đừng xem nữa.
Thầy bảo:
-Tuỳ tâm.
Chẳng biết mình rút tờ xanh hay tờ đỏ. Mọi thứ cứ nhạt nhoà, chóng vánh.
Đi.
Không biết là sẽ đi đâu. Cứ lên xe và nổ máy. Hình như đã đi qua ba cái đèn đỏ, hai cái đèn xanh vẫn chưa thấy cái đèn vàng. Lại đi…ý nghĩ kéo tôi đi vô định…

                                         * * *
Từ đó tôi bắt đầu sống ở một thế giới khác, cái thế giới chìm nghỉm, nghẹt thở như khi mình bị người ta bịt mũi ghì nằm xuống mà hù dọa. Thế giới ấy chắp nối, nó hoang tàn, rơi vãi những cái đời thường mà hàng ngày tôi vẫn gặp. Nó cũng là vùng đất mới với những cảnh vật và con người mới. Tôi lại nghĩ đến những câu chuyện cổ tích đầy tốt đẹp. Tôi cũng có những giấc mơ, nhưng nó không đẹp, những giấc mơ mọc ra từ những chiếc gai nhọn hoắt đâm vào tôi, lăn xả vào tôi. Tôi mơ thấy mình lao xuống một vực thẳm mà chưa ai nhìn thấy đáy. Những đốm xanh đỏ, tím vàng, quấn tôi xuống, xoay tôi chóng mặt. Tôi gọi rất to nhưng cũng chỉ như người đứng giữa vách đá. Tiếng hét đập vào vách vang xa, chỉ tưởng thế rồi chưa thấy đáy đâu thì tôi đã bị xoáy vào một đám ma. Khăn tang trắng con đường quê tôi. Tôi thấy mẹ tôi chết. Rồi tôi cứ khóc kiệt sức mình rồi lại tỉnh. Tôi cứ trông chờ vào những câu chuyện cổ tích, vào những ông bụt bà tiên. Nhưng tôi đợi mãi…”

Lại viết. Viết như một bản năng mà dường như lại không phải bản năng. Định nghĩa về bất cứ thứ gì tồn tại đối với tôi đều không khó, nhưng cứ mỗi khi định nghĩa về bản thân là mọi thứ đều rối tung, rối mù lên cả. Kệ. Thế mới là cuộc đời - Một cuộc khổ ải - Hay là một cuộc chơi thú vị.
Lại buồn, chẳng hiểu sao dạo này mình lại trở nên bất cần như thế.
Mồ côi
Mồ côi
Mồ côi
Thấy chán ghét cụm từ đó vô cùng nhưng nó lại luôn ám ảnh. Đôi khi hơn cả chán ghét là nhói đau, là hờn giận. Không muốn đổ vào đầu nhân vật thế là tắt đèn đi ngủ. Trằn trọc mãi tự nhiên thấy buồn. Cô đơn. Trống rỗng. Thấy mình đúng là mồ côi thật. Chẳng có bất cứ ai bên cạnh cả. Nếu mà mình ốm thì sao nhỉ? Ai sẽ đắp khăn cho mình? Ai nấu cháo cho mình? Ai sẽ dặn mình đừng nằm nhiều, phải đi lại cho đầu óc thoải mái? Ai? Ai? Ai?
Nước mắt chảy dài. Buồn như chưa bao giờ được buồn như thế nếu không muốn nói là đang tuyệt vọng và chán nản. Không muốn nói là cuộc đời vô vị, là mình đang muốn chết.
Thế thôi!

                                                * * *

Chẳng hiểu vì sao lại chọn nghề văn, chẳng hiểu vì sao lại chạm tim đau nhiều thế. Bảo đừng nhớ những cái cần phải quên thì lại nhớ, nỗi nhớ như là mặc định. Đôi khi chẳng hiểu nổi mình với những nỗi buồn vời vợi. Những câu văn đau, những nhân vật phải thay nhau lên giàn thiêu mà cuộc đời vẫn chưa thanh thản. Đôi lúc nhận ra một sự thật mà không biết nên buồn hay lên vui nữa rằng cuộc đời tôi cũng chỉ là một nhân vật bất đắc dĩ trong cuốn tiểu thuyết dài kì của thượng đế mà thôi. Chẳng biết cuối cùng thì thượng đế sẽ cho tôi chết hay là sống, sống hạnh phúc hay là đau khổ nữa…Đôi lúc không muốn cố gắng. Cứ ngồi yên một chỗ. Và phó mặc.
Nhưng ngồi yên thì ngòi bút lại đi, ngòi bút đi vào tâm can con người như vạch ra từng tia máu.
Đôi khi cho nhân vật mình cười nhưng chính mình lại khóc.
Đôi khi cho nhân vật chết đi như chính mình cũng đang phải gặm nỗi đau ấy rồi chết dần mòn.
Đôi khi muốn giết quách cái nhân vật ấy đi mà vẫn phải mỉn cười với nó.
Đôi khi…
Có hàng trăm cái “đôi khi” làm tôi chảy máu. Thế là lại phải đi. Đi để biết nhiều hơn về cuộc đời để đừng chỉ viết về nỗi đau của riêng mình mãi. Có ai đó đã nói rằng nếu người viết cứ mài mòn mãi kỉ niệm, kí ức mà không chịu đắp bồi thì cũng sẽ có ngày trắng tay, nghoảnh đi nghoảnh lại chẳng còn gì mà viết. Có phải tôi đang sợ đích danh điều đó hay không, hay là tôi chỉ đang sợ một điều gì đó còn xa vời lắm…

                                               * * *
“Cũng không nhớ nổi khi nào và bằng cách nào tôi thoát ra khỏi cơn ác mộng hãi hùng như thế. Chỉ biết sau một tháng hành hạ đầu óc và thể xác, tôi mòn mỏi đi nhiều. Các khớp đau dã dời, lưng đã gù càng gù hơn. Đầu tôi ong ong như tiếng trống đám ma, tiếng khóc mướn, tiếng cuốc xẻng va nhau đào huyệt. Trời đất! Tôi sớm muộn gì cũng sẽ thần kinh. Thà thế còn hơn, suy cho cùng sướng nhất vẫn là người vô âu vô lo. Mà là người ai chẳng phải lo nghĩ, chỉ những thằng đần độn, ngớ ngẩn và thần kinh là sướng. Nhưng nhỡ đâu, thần kinh có cái khổ của thần kinh thì sao nhỉ? Thế thì tôi biết phải làm sao? Làm sao bây giờ chứ? Tôi bóp gì hai bàn tay vào hai thái dương. Cảm tưởng như mười đầu ngón tay đang tụ máu. Một ý nghĩ tội lỗi man rợ chợt loé lên. Tôi cười, nụ cười đỏ nhoét, toàn máu ở chân răng: “Sao mẹ không chết đi? Chỉ cần mẹ chết là mình không phải suy nghĩ về bất cứ điều gì. Mình cũng thôi bị ám ảnh. Phải! Sao bà không chết quách đi chứ?
Ai ngờ mấy tháng sau mẹ tôi ốm  thật. Khi bà ốm người ta mách tôi lên tận Sapa lấy thuốc nam may ra mới cứu được mẹ. Tôi lì lợm không đi, cứ đứng chân giường nhìn mẹ trừng trừng tưởng như con người hoá đá tự bao giờ. Cha tôi đưa mẹ xuống bệnh viện trung ương. Bệnh khám đúng, thuốc phát đủ. Vậy mà tim mẹ đập ngày càng yếu đi. Vì bà không lúc nào ngủ hay nhắm mắt. Bà cũng cứ nhìn tôi trừng trừng. Bỗng nhiên lúc ấy, trong tôi sôi lên lòng căm thù mẹ cùng những câu chuyện, những quẻ bói ám ảnh, đeo đẳng bào mòn tôi. Rõ ràng tôi thấy tôi lao vào mẹ, gì chặt cổ đến khi mắt bà trắng dã không nói lên được một lời. Không! Là tôi vẫn ngồi cuối giường, chỉ nhìn mẹ thôi, hai tay vẫn đặt lên đầu gối. Bố và anh tôi bên cạnh mẹ. Sao lại thế. Bác sỹ vào lắc đầu thất vọng. Mẹ chết, mẹ ra đi thật. Tại sao tôi cũng không hiểu được nữa…
Trong cơn mơ, bao giờ đám tang mẹ tôi cũng kêu gào thảm thiết. Nhưng lần này, lần thật sự này, tôi lại không mảy may rơi một giọt nước mắt. Tôi câm lặng bên mọi tiếng kêu gào. Tôi không khóc.”

Bế tắc.
Đôi lúc bế tắc không biết phải viết tiếp như thế nào nữa. Rồi hoang mang… “Phải chăng nhân vật này sẽ không thuộc về mình nữa”. Những lúc như thế tôi thấy dường như tôi không chỉ bất lực trong trang viết mà còn đang bất lực trong chính cuộc sống đời thường. Những lúc như thế tôi hay khoá cửa lại và đi lang thang…Không chủ định là đi đâu, cứ để cho đôi bàn chân bước theo quán tính riêng của nó. Như thế đôi khi cũng hay. Ta giải phóng cho một cái gì đó để lơi lỏng chính cái thòng lọng đang thít chặt cổ ta, thít chặt vào cuộc sống của ta.
Hà Nội những buổi chiều mùa hè ngột ngạt hơn mức người ta vẫn nghĩ về nó. Bụi đường và khói xe vô hình đã ủ lên khuôn mặt bao người một màu sắc khác, mùi vị khác. Vì thế mà không ai muốn cười với ai, không muốn nói chuyện với cả người thân mình đang ngồi đằng sau nữa. Đôi khi chả vì một cái gì người ta cũng sẵn sàng cáu gắt. Và đôi khi tôi cũng muốn gây sự với bản thân mình, cũng chẳng rõ vì một lý do gì nữa.

                                                * * *
“Hóa ra tôi tự đặt cho mình nhiều cuộc đối thoại, tự gây những xung đột tạo nên cảm xúc. Tự dày vò bản thân. Tôi làm thế để làm gì nhỉ? Tôi cũng không biết nữa. Tất cả cứ diễn ra như một quy luật, như một nhu cầu tự nhiên mà tôi cũng không bao giờ nắm bắt được. Tôi nói lảm lảm như thế ở bất cứ nơi nào, miễn là lúc đó không có người, tôi nói khi trong vườn chỉ có những cây xoài già nhăn nhó mình dưới nắng tháng mười. Tôi nói khi đàn gà con rúc mình vào bóng mẹ trong một buổi sáng mùa đông. Tôi nói khi chỉ còn tôi phả chiếc bóng lên tường biểu diễn những màn kịch câm vô thức, tôi nói cả trong nhà xí nơi tôi chốn mình ngồi hàng giờ, nghĩ vẩn vơ. Tôi nói khi ngọn lửa tôi cời vẫn trỗi dậy những khát khao… Còn khi có mọi người xung quanh, tôi vẫn tự tạo cho mình những cuộc đối thoại trong tâm tưởng và bị nó nhấn chìm, cuốn đi, xoáy tít, rồi cũng chẳng biết khi nào tôi tỉnh lại, trở về cuộc sống đời thường? Nhưng ngay cả khi sống trong thế giới của riêng mình, tức là cả khi tôi đang thức tôi vẫn luôn luôn gặp những cơn ác mộng hành hạ tâm trí. Rõ ràng tôi đang ngồi trước mặt mẹ, mẹ đang cặm cụi giã lạc muối, bàn tay mẹ nện chày đều đều. Vậy mà trong óc tôi bỗng hiện ra một thế giới khác. Những vòng hoa mưa gió tàn rũ, đất đỏ hiện ra. Nghĩa địa buồn thê thảm. Tôi khóc tự bao giờ, mà đến khi mẹ giật giọng tôi mới cảm nhận thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má.”

Đêm mơ!
Mơ thấy mình bị bỏ rơi trong một hoang đảo. Không hiểu cái gì đã lôi tôi vứt vào giữa cái thế giới cô đơn ấy, chỉ biết khi tôi tỉnh dậy trong hoang đảo không có cả tiếng một loài chim, không cả tiếng gió. Chỉ tiếng sóng biển vỗ vào cõi hoang mang sâu thẳm. Tôi đã chạy…chạy…chạy mãi vẫn chỉ thấy tiếng bước chân mình vọng lại khoảng không bất tận. Khi tôi sắp ngã quỵ xuống bãi cát vàng tôi giật mình vừa vui mừng, vừa hoảng sợ vì bắt gặp một bóng người đang trải dài phía trước nhưng hoá ra đó chỉ là chiếc bóng của chính tôi. Tôi cô đơn đến tuyệt vọng, tôi hú tiếng hú của vượn gọi bầy, tiếng hú hoang rợn đến mức làm tôi bừng tỉnh và thoát khỏi cơn mơ ấy. Nhưng hoang đảo thì vẫn còn tồn tại trong tâm trí tôi mãi tận sau này. Tôi biết chắc là như thế.
Căn phòng của tôi đêm đó là một hoang đảo ghê sợ. Khi tôi tỉnh dậy, tôi sờ xung quanh giường tôi chỉ thấy một khoảng không, một sự trống rỗng đến tột độ. Không một chiếc gối, không một mùi mồ hôi khác…Và nhận ra rằng đã lâu lắm rồi…Lâu lắm mình cũng không có cả thói quen sờ sang bên cạnh để tìm một chỗ dựa, tìm một hơi ấm thân quen.
Bất chợt! Tôi úp mặt vào bàn tay của mình đang run lên vì cô đơn và khóc. Khóc nức nở, khóc như thể đó là thủ tục cuối cùng của sự sống để rồi mãi mãi không còn tồn tại nữa. Càng khóc càng thấy mình cô đơn, cô đơn hơn cả khi đang ở trong hoang đảo…Tôi chợt nhớ mẹ quay quắt. Tôi thèm được gọi một tiếng “mẹ” vô cùng. Thế là hình như tôi đã gọi trong nỗi cô đơn ấy nhưng hình như không ai trả lời. Tôi vẫn khóc. Tôi nhớ lúc bé mỗi khi đêm gặp ác mộng, khi tỉnh dậy tôi vẫn thường quờ tay sang bên cạnh để tìm mẹ, rồi thể nào mẹ cũng ôm tôi vào lòng và nựng. Mẹ nựng khéo lắm, mẹ bảo trên đời này không hề có ma. Người sống còn không sợ thì làm sao mà phải sợ ma cơ chứ. Mẹ nói rất nhiều nhưng bao giờ tôi cũng rúc vào nách mẹ ngửi cái mùi mồ hôi ấy mà ngủ tự lúc nào. Tuyệt nhiên không còn cảm thấy hoảng sợ nữa. Đêm bình yên đến lạ.
Đêm nay muốn với tay thấy mẹ biết chừng nào nhưng nhận ra rằng mẹ đã xa vời vợi. Không hiểu là tôi đã buông tay ra khỏi mẹ hay là mẹ đã buông tay tôi trước, chỉ biết lúc nghoảnh lại thì đã chẳng thấy mẹ đâu nữa. Bỗng nhiên tôi thành đưa trẻ mồ côi.

Sáng ra!
Muốn sải cánh về dòng sông quê đi tìm mẹ.
Cái cảm giác đầu tiên khi lao vào giữa dòng người là một nỗi vui mừng xen lẫn sợ hãi. Vì tôi nhận thấy rằng cái thế giới mà tôi đang sống không phải là một hoang đảo, trái lại nó đang tắc nghẽn vì đông đúc những người với người. Nhưng bụi đường và khói xe lại làm tôi thấy cái mơ ước đi tìm mẹ  mới ngột ngạt làm sao, phù phiếm làm sao.  Đường Hà Nội vẫn làm cho người ta thấy ngột ngạt hơn những gì mà bản thân tưởng tượng.
Thế thôi!

                                                * * *


Đến cơ quan.
Bác bảo vệ lừ mắt chỉ vào chỗ để xe cố định. Chả hiểu ai đã phân luồng như thế, nhưng cứ hôm nào tôi mải nghĩ ngợi lung tung mà lơ đãng cái bổn phận của mình là y như rằng bị nhắc nhở. Lại một ngày thần kinh không ổn định. Biết là thế nhưng không tài nào chấn chính nổi.
Anh xoay xoay cốc cafe, trầm ngâm nhìn xuyên vào những đốm nắng đầu tiên.
Hỏi:
-Lại cafe à?
Anh nhún vai rất điệu nghệ:
-Giải trí ấy mà. Sao hôm nay mặt cô em hốc hác thế? Bị phụ tình à?
Choáng.
Anh chưa bao giờ ăn nói với tôi bằng cái giọng bụi đời và “vô tâm hoá” thế. Cứ như giữa tôi và anh chả hề quen biết gì. Cứ như tôi chỉ là kẻ phục vụ bàn, hỏi anh uống thứ nước gì và bị anh đáp lễ bằng những câu đầy lễ độ như thế đấy. Cảm giác ngay lúc này là mình đang sống giữa một tập thể nhưng chẳng khác gì hoang đảo. Tránh không nhìn sang phía ấy, muốn bịt tai để những giọt cafe đừng rơi nhấm nhẳng như nỗi cô đơn đang gặm nhấm.
Bật máy tính. Lại viết. Chả thể làm gì khác là chốn vào các trang viết cả. Gõ loạch coạch, thấy mọi thứ dường như cũng suôn sẻ nhưng tự nhiên lại bôi đen và ấn enter, rồi tắt luôn. Biết không thể phục hồi được nữa, cũng không muốn phục hồi. Muốn đi bụi thật, bỏ lại vô số lề thói và nguyên tắc để đi bụi một lần. Dĩ nhiên là đi một mình, dĩ nhiên là chẳng có ai để ý xem tôi đi đâu và làm gì vào bất cứ khoảng thời gian nào. Ở đây mọi người không có thói quen như thế, cũng như họ có thói quen dửng dưng với mọi việc xảy ra xung quanh mình. Chỉ có thể là một người thật sự quan trọng mới quan tâm và lo lắng, nhưng tôi thì lại không có được điều đó.
Bịt kín mặt và lao ra đường, nếu có ai đó gọi tôi là con điên cũng đúng. Tôi đang điên loạn vì sự bức bí phát ra từ chính trong từng đường gân, thớ thịt, từng mạch nguồn suy nghĩ. Tôi biết nếu bản thân không giải phóng được thì rất có thể nó sẽ bốc cháy lên giữa đường Hà Nội như cái xe máy mà tôi đã từng chứng kiến. Thế đấy, cuộc đời tôi là thế đấy.
Chạy xe vẩn vơ. Đèn đỏ. Đèn xanh. Dừng. Đi…Cứ thế! Cảm giác như nghe thấy tiếng kêu u u phát ra từ trong óc, chắc tại nó khô khốc quá, nó cũng đòi tra dầu mỡ như bất cứ một bộ máy nào khác. Nó đã quá tải, nó không được quan tâm thường xuyên và đúng mức hay nó không có những liều thuốc tinh thần thú vị? Tất cả đều đúng hoặc tất cả đều sai…Chẳng mang lại một ý nghĩa gì. Xe vẫn cứ lao trên đường phố, đôi khi phanh kít lại. Nhận ra vô khối cái đầu cần tra dầu mỡ chứ chẳng riêng gì mình. Thấy vui vui, chẳng hiểu vì sao lại thế.
Bỗng!
Gió thổi lạnh gáy, người qua lại bên cạnh mình ít dần đi. Nhận ra mình đã lao đi vun vút về phía ngoại thành. Lại đi, có một cái gì đó cứ kéo mình đi mãi cho đến khi ngửi thấy một mùi vị quen thuộc, một ánh nhìn quen thuộc: “Quê hương”. Không tin nổi mình đã phóng đi hơn một trăm cây số trong vòng mấy tiếng đồng hồ. Phóng đi như một con điên.

                                                * * *
Mộ của bà cỏ hoang đã mọc rất nhiều. Có lẽ một cơn mưa nào đó vừa mới đi qua, một bàn tay ai đó vừa sờ lên cỏ vẫn còn ấm lắm. Hay là nước mắt, nước mắt của một người cháu có kí ức tật nguyền để rồi lớn lên kì thị chính miền quê đã sinh ra mình và bỏ rơi luôn nấm mồ của người đã cưu mang mình từ tấm bé.
Khóc.
Khóc như một lần nữa thấy mẹ sang sông đi lấy chồng bỏ lại tôi cùng đống đồ hàng mồng tơi, không người ngã giá. Để mỗi chiều đi học về phải đối mặt với lũ chăn bò hay chặn đường bắt nạt: “Đồ mồ côi. Đồ không có ai nuôi. Đồ bị bỏ rơi. Lêu lêu! Lêu lêu!” Nó giống như một chuỗi nhạc khủng khiếp của tuổi thơ mà thi thoảng trong những giấc mơ vội vã của mình tôi vẫn bắt gặp.
Luôn tự dối lòng mình rằng: “Mày chỉ là một đứa trẻ bị mồ côi không hơn không kém. Bố mày đã chết. Mẹ mày đã chết. Người thân duy nhất của mày là bà nội cũng đã về với đất lâu rồi”. Nhưng trong tận thẳm sâu vẫn thấy một nỗi tủi hờn cứ chực trào dâng. “Còn biết tủi hờn, còn biết ghét giận là còn biết yêu thương nhiều lắm”. Đột nhiên tôi thấy sợ cái suy nghĩ của chính mình. Tôi không muốn phải công nhận rằng tôi đang giận mẹ, tôi không muốn công nhận rằng tôi còn có bố mẹ trên đời. Điều ấy làm tôi bị tổn thương. Tôi đã cố chối bỏ nhưng tôi đang khóc, tôi ngửi thấy mùi của phù xa, của sóng sông của cát trắng phía bờ bên kia vời xa ấy…
 Nó lững thững đi tìm…
-Ai… đ…o…ò..na…ò! A…i đò đ.i..i...i!
Nghe chênh chao mặt sóng. Người lái đò ca câu gì nghe buồn đến mức không nhớ nổi. Rồi nhìn tôi chằm chằm. Hỏi:
-Sang sông tìm mẹ phải không cháu?
Chẳng hiểu sao tôi lại gật đầu. Người lái đò đẩy mạnh tay lái rồi nhìn phía xa xa, nơi cánh chim chiều đang bay về tổ.
-Mẹ cháu chết rồi, còn tìm chi nữa. Tro còn tưới bến sông này.
Nghe như bầu trời vừa rơi xuống dòng sông trống rỗng. Sóng nước chênh chao, ngả nghiêng như trận bão lớn đang về. Tôi gọi mẹ. Tôi gọi rất to nhưng mẹ không đáp lại:
-M…ẹ…Ơ…i…i….i…!
                                                * * *

Tôi bỏ nhà lên chùa đòi sư bà cắt tóc đi tu. Cha tôi tìm gặp căn ngăn. Lạy cha. Tôi khóc. Người thân trong gia đình không hiểu tại sao. Sư bà nhìn lại, nói những lời không trọng lượng:
-Lòng con đã thật sự tĩnh chưa? Quên hết mọi chuyện đời trần tục hay chưa? Nếu không, có cạo đầu, tụng kinh cũng vô tác dụng.
Tôi gật đầu:
-Lòng con đã tĩnh.
Mà trong lòng gào lên cơn cuồng phong dữ dội.
Anh trai lên thăm, tôi không ra tiếp. Sư bà gật đầu:
-Đã quyết, ắt con làm được.
Ai ngờ tiếng gõ mõ tụng kinh chính là màn cười man rợ của mẹ vọng về.
Tôi ốm liệt giường mấy ngày. Sư bà vào ra không nói một lời. Tại tiếng gõ mõ tụng kinh át đi! Lại là mẹ hiện về rất gần đây thôi, bên tay tôi, đúng rồi,  bên má tôi. Đòi móc mắt tôi.
Tôi lao ra khỏi phòng, ra gian thờ chính giằng bộ mõ của sư bà quăng ra khỏi cửa. Tôi lao ra ngoài, hoảng loạn.”

Tôi nhận ra rằng không phải tôi đang cầm ngòi bút để tạo ra các nhân vật của mình với các số phận khác nhau. Không phải tôi tôi đang bỏ mặc chúng với những hỷ, nộ, ái, ố của cuộc đời…Mà chính là chúng đang bỏ mặc và cười nhạo tôi đấy chứ. Chúng cười tôi cả đời phải đi đóng thế, cả đời không sống nổi với bộ mặt của chính mình. Chúng cười tôi giả dối, cười trái tim mềm yếu của tôi không dám đối mặt với kí ức tật nguyền, không dám tha thứ, không dám yêu thương. Chúng đang coi tôi là loài búp bê đặc biệt, thứ búp bê hoàn hảo đến tội nghiệp.
Cuối cùng đời trả thù lao cho những vai diễn của tôi bằng một cái kết đau đớn nhất. Thế là tôi đã mồ côi thật, tôi bắt đầu hoảng sợ về cái sự thật ấy. Tôi sợ thành phố, tôi chạy chốn con người và công việc. Tôi muốn tìm cho mình một hoang đảo thật sự. Nơi mà tôi không phải đóng bất cứ vai diễn nào trên đời. Nơi chỉ tôi đối mặt với chính tôi.
Cũng may trong phút hoảng loạn ấy, tôi chợt nhớ ra rằng tôi còn cha tôi. Người cha đã bỏ mẹ con tôi theo một người đàn bà khác. Tôi không biết mình có còn đủ sức cho một cuộc kiếm tìm nữa hay không. Nhưng tôi vẫn sẽ ra đi…


                                                              9-6-2009


VŨ THỊ HUYỀN TRANG